Nhà thờ họ Dương, xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu là một dòng họ có truyền thống cách mạng và hiếu học, nhiều người đỗ đạt, thành danh, khoa bảng nối đời, đã có những đóng góp to lớn cho nền văn hóa nước nhà, cho lịch sử quê hương, được triều đình Hậu Lê ban tặng 8 chữ vàng “Thanh bạch môn phong, thế xuất khoa bảng” nghĩa là: Nếp nhà thanh bạch đời cử khoa danh.
Di tích lịch sử văn hóa nhà thờ họ Dương được xây dựng vào thời Hậu Lờ, là nơi tôn thờ, tưởng nhớ các bậc tiên tổ và hậu duệ của dòng họ, tiêu biểu như: Thái thủy tổ Dương Văn Khai, Dương Cát Phủ, Dương Doãn Hài, Dương Thúc Hạp v.v...
- Ông Dương Văn Khai, người thầy dạy học đầu tiên đưa ánh sáng văn hoá về Thổ Đôi Trang, là con trai duy nhất của cụ Dương Đăng Hoành, ông sinh vào khoảng thập kỷ thứ 2 của thế kỷ XV. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình khá giả và có truyền thống hiếu học tại xã Yên Lý, tổng Vạn Phần, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Từ nhỏ ông là người thông minh, hiếu học, lại được gia đình cho ăn học, giáo dưỡng đến nơi đến chốn; lớn lên ông nổi tiếng là người hay chữ nhất vùng, cốt cách thanh tao, tính tình đôn hậu, nên vào khoảng những năm 1440, cụ tổ họ Hồ ở Thổ Đôi Trang đã mời ông về dạy cho con cháu mình. Nhờ sự tận tụy của cụ, sự nghiệp học hành của Thổ Đôi Trang ngày càng phát triển, số người học hành, đi thi, đỗ đạt ngày càng cao. Cụ trở thành người khai mở đầu tiên cho nền học vấn của Thổ Đôi Trang, và cũng là người họ Dương đầu tiên đặt nền móng trực tiếp cho sự ra đời của dòng họ Dương trên vùng đất Thổ Đôi Trang (nay là xã Quỳnh Đôi).
- Ông Dương Cát Phủ huý là Bảng, sinh vào khoảng những năm 1498 - 1500, tại Thổ Đôi Trang, ông là con trai trưởng của cụ thuỷ tổ Dương Thế Thông. Năm Nhâm Ngọ, hiệu Thống Nguyên, triều vua Lê Cung Hoàn (1522) ông dự thi Hương và đã đậu giải Nguyên. Đến năm Bính Ngọ, niên hiệu Nguyên Hòa thứ 14 (1546), ông dự thi chế khoa ngự thí do vua Lê Trang Tông mở tại Biện Sơn, Thanh Hoá và đã ®Ëu Tiến sỹ đệ nhị danh (Thám Hoa).
Thời kỳ ông thi đậu Thám Hoa và nhiều năm sau đó, đất nước ở trong tình thế rối ren, loạn lạc, triều Lê suy tàn, mục ruỗng, bị nhà Mạc cướp ngôi lấn chiếm, phải dời đô vào Thanh Hoá, tạo thành 2 chiến tuyến Nam - Bắc triều. Bên ngoài thì Giặc giã nổi lên, bệnh tật, đói rét hoành hành làm cho đời sống nhân dân vô cùng cơ cực. Trước bối cảnh lịch sử “nồi da nấu thịt”, nhân dân đói khổ cơ hàn, ông không màng đến chốn quan trường mà sống thanh bần tại quê nhà bằng nghề dạy học. Vốn tinh thông chữ nghĩa, có khoa danh (Thám Hoa), lại có cốt cách nên học trò theo học ngày càng đông.
- Ông Dương Doãn Hài sinh ngày 1 tháng 8 năm Quý Dậu dưới triều vua Gia Long (1813), Là con trai của cụ Hàn lâm thị giảng Dương Đức Hoàng, thủa nhỏ ông có tên là Dương Hoàn, lớn lên đổi tên là Dương Doãn Chấp, đến lúc có khoa cử đổi tên là Dương Doãn Hài. Ông thi đỗ giải Nguyên tại khoa thi hương năm Thiệu trị thứ 3 (1843) và ông đã được bổ chức Tham chính trong triều.
Sau một thời gian giữ chức Tham Chính, ông được triều đình điều vào làm tri phủ Thăng Bình (tỉnh Quảng Nam), rồi Đốc học Bình Định. Trong thời gian giữ chức Đốc học Bình Định, với tinh thần chống Pháp triệt để, ông đã chiêu tập học sinh của mình lập đội nghĩa hiệp, tổ chức đào hào, đắp ụ để chống cự với Pháp.
Vào khoảng năm Canh Thân dưới triều Tự Đức (1860), triều đình cử ông về làm án sát tỉnh Thanh Hóa và Ninh Bình. Thời gian này, đất nước bị loạn lạc nhiều nơi, nhân dân vô cùng cực khổ. Ông đã có công dẹp loạn ở phủ Nho Quan, ®îc thăng bố chính sứ Thanh Hóa...
Ngoài có biệt tài về kinh tế, tổ chức trận mạc, ông còn là một vị quan thanh liêm, đức độ, tài cao, luôn quan tâm giúp đỡ người nghèo và chăm lo cuộc sống của dân.
Cao Xuân Dục, thượng thư bộ học triều Nguyễn đánh giá về Dương Doãn Hài như sau “Giải nguyên Dương Doãn Hài là nhà chính trị, nhà kinh tế biệt tài của triều Nguyễn. Ông đậu cử nhân năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), bổ tham chính, lần hồi thăng lên án sát Thanh Hóa. Đời Tự Đức, vì có công dẹp lọan thổ Khấu Ninh Bình được thăng bố chính Thanh Hóa (1860) theo Hoàng Kế Viêm lập được nhiều công... Ông chiêu mộ lưu dân, khai khẩn ruộng đất, có kết qủa rất tốt đẹp. Năm Tự Đức thứ 31 (1878) được Sung chức Tán lý đạo Sơn, Hưng Tuyên” .
- Ông Dương Thúc Hạp, ông sinh ra trong một hàn nho thanh bần. Năm 28 tuổi thì cả cha lẫn mẹ đều qua đời. mặc dù cảnh nhà thanh bần nhưng ông vẫn kiên trì đèn sách, lều chõng thi cử. Khoa Quý Dậu (1873), ông đã thi đỗ tú tài, đến khoa Kỷ Mão, đỗ cử nhân, lúc này ông 45 tuổi. Sau khi đỗ cử nhân, ông được bổ làm quan, đến tháng 5 năm Quý Mùi (1883), được bổ chức Hàn lâm điển hạ sung hậu bổ tỉnh Quảng Bình. Đầu năm Giáp Thân (1884) ông lại lều chõng đi thi hội và đỗ Tam giáp tiến sỹ đệ nhất danh (đỗ đầu tiến sỹ), sau khi đỗ tiến sỹ, được bổ làm quan trong triều. Năm Ất Mùi (1895), ông thụ chức Đốc học hàm ch¸nh ngũ phẩm; Tháng 9 năm Kỷ Hợi (1899) được thăng Hồng lô tự khanh hàm chánh tứ phẩm.
Ngoài hoạt động chính trị, dạy học, ông còn là một nhà thơ nổi tiếng, trong đó có tập thơ tiêu biểu “Nghệ tĩnh sơn thủy vịnh”. Cuộc đời và sự nghiệp của Dương Thúc Hạp là tấm gương sáng về sự lao động cần mẫn và sáng tạo, vượt lên gian khổ, lạc quan yêu đời, giữ trọn cái tâm, cái đức, một con người rất nặng lòng với đất nước, quê hương, với tiền nhân hậu thế.
Phát huy truyền thống tốt đẹp của tổ tiên, lớp lớp con cháu trong dòng họ Dương đã tiếp tục cống hiến cho đất nước những nhân tài lỗi lạc, góp phần dựng xây quê hương, đất nước Việt Nam ngày càng thêm giàu đẹp, văn minh.
Nguồn tin: Cổng TTĐT huyện Quỳnh Lưu
Ý kiến bạn đọc