Làng tôi, Làng Quỳnh                                                                     

Thứ năm - 17/10/2019 22:31 1.912 0
Ai cũng có một vùng quê để thương để nhớ. Tôi được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất có tên cổ làng Quỳnh là xã Quỳnh Đôi nức tiếng ngày nay.  Xã tôi chỉ có một làng, cả xã chỉ có một làng, lạ thế. Quê tôi, Làng Quỳnh là nơi thu nhỏ và giữ gìn tinh hoa của cái nôi  văn hóa, với nếp sống thuần hậu của người dân cày và làng xã ngàn đời của một vùng Bắc Trung bộ.
Bản đồ Hành chính xưa Quỳnh Đôi
Bản đồ Hành chính xưa Quỳnh Đôi
Tôi sinh ra từ làng, lớn lên  từ làng, tình yêu quê hương, con người cũng từ làng,  đi đến đâu cũng xốn xang với những kỷ niệm sâu lắng của một thời ấu thơ.         
Cánh diều tuổi thơ

Làng tôi,  được xem là vùng đồng bằng chiêm trũng, ngập mặn như trong sách điạ lí tự nhiên của học trò. Cả thời tuổi thơ tôi gắn với những năm tháng lam lũ, mò cua bắt ốc, mót lúa mót khoai  mà cực kì vui nhộn, hứng thú. Ấy là sau buổi học về, cất sách xong là cả bọn, quần đùi, trần trùng trục thế, rủ nhau  đi nơm, mót ló, đạp khoai thẩm, hôi cá, bắt chim, rồi buổi đêm  câu lươn, thọc khăm, thả trúm…  Không cánh đồng nông sâu nào trong vùng mà  không mò đến. Hói hay ao nào có con gì, thuộc làu. Bắt cáy, bắt thòi lòi đê Hói Nồi, cá hồ Hàn Diên, bắt tôm dưới cống âm Cây Chả, đi nơm cá tràu ở hồ Bang Bừu, bắt ếch ở đồng Bon Bon, bắt rạm bắt cua ở Đồng Gẫy , Đập Bản, đặt lừ bắt cá ở sông Đồng Nghệ,chọt rau má ở Đồng Tương. Nhiều nơi lắm. Đứa nào cũng lấm lem, bùn đất từ đầu chí chân, mặt mũi lấm lem bùn, đôi khi không nhận ra mặt nhau.
13782035 1663449973974921 6844777801402006766 n
Người được ví như nghệ nhân về Diều Hồ Trọng Lạng (ảnh: Quang Thành)
          Mùa xuân là mùa chim làm tổ.  Vườn nhãn  nhà bà Bảo, vườn ổi nhà ông Cụ , bắt chim sẽ ở cây cau bà Chung, bà Mậu  có nhiều tổ chim, cu cu, ác là, có cả tổ chèo bẻo, tít trên ngọn cây gạo ông Dương hay gai góc um tùm, chẳng đứa nào ngán, leo thoăn thoắt. Thích nhất là gặp được tổ chích chòe, con non mới ra ràng, cho vô lồng nuôi rất mau lớn, bắt cá thia nuôi trong chai. Bọn lít nhít chúng tôi chẳng khi nào yên lặng, chẳng khi nào để yên chân tay, khi nào cũng như trận cuồng phong. Và cũng chẳng thng nào giày dép, mũ miện, áo khăn, chỉ trừ những ngày rét lắm lắm. Hết chơi ù, đánh khăng, đánh trận giả thì chọi gụ, đánh đáo, vật nhau.
 Hình ảnh những thằng con trai chín, mười tuổi, chân đất đầu trần, đánh chiếc quần cộc đánh “Vuốt tai” chạy đuổi  khắp xó xỉnh trong làng, hò hét đến khản cổ nói không ra tiếng với những trò chơi đánh khăng đánh đáo có từ xa xưa đã gắn lìền với tuổi thơ thần tiên của tôi và theo tôi đi cho đến hết cuộc đời…
 Đến khi lớn lên một  chút, lứa tuổi thiếu niên hiếu động và háo hức sáng tạo, thì lập thành những : Đội bóng chân đất  xóm này, xóm nọ quần nhau,  đến mệt phờ, áo quần bê bết đất, quên ăn, quên  ngủ. Đêm về lại rủ nhau đàn sáo , tập văn nghệ,  mải vui đến gà te te gáy sáng mới đi nằm . Nhưng cũng nhờ hiếu động nhờ giao lưu từ bé, chơi với nhau dài dài, mà hầu như trong làng trong  xã chúng tôi đều quen mặt thuộc tên nhau, có bạn rất hiểu nhau xem nhau như ruột thịt suốt cả gần 60 năm qua.
Làng của trầm tích văn hóa
Làng tôi, rộng chưa đầy một cây số vuông. Người làng đều có anh em xa gần với nhau vì số dòng họ định cư không nhiều . Sau này lớp trẻ chúng tôi có điều kiện học hành được đi khắp đất nước và một số nước trên thế giới,  nhưng ai cũng nhớ về cội nguồn. Tôi  tự hào mà khẳng định với bạn bè rằng không nơi nào giàu đẹp về văn hóa bằng làng Quỳnh  của tôi. Nói như thế mà chẳng ai nghĩ tôi chém gió hay chủ quan, lạ thế. Không phải chỉ người Bắc chưa đến xứ Nghệ  mà bạn bè trang lứa ở trong huyện, ở các huyện  lân cận cũng đồng ý gật đầu,  tủm tỉm cười vui. Cũng không phải lớp trẻ chúng tôi thái quá mà ngay cả các cụ thời xưa, dù có làm quan to đến chức thượng thư lục bộ ở triều đình, thì khi  đến tuổi nghỉ già vẫn về quê  làng Quỳnh sống những ngày còn lại. Bây giờ nhiều vị  thành danh, đại gia, đại phú, có biệt thự ở phố, vẫn không ít người giao lại cho con để về nơi chôn rau cắt rốn, bến nước sân đình để tu bổ xây dựng lại căn nhà bố mẹ để  lại, chăm sóc hương hỏa và vui thú điền viên. Những người khác buộc phải định cư nơi quê người thì mỗi năm cũng tổ chức nhiều chuyến đi về.
Đấy là nhân các dịp lễ tết , việc họ đương  và giỗ chạp trong gia đình, những người con xa quê, xa làng Quỳnh có thời gian để về quê thăm lại anh em họ mạc, thăm lại ao chuôm bãi cỏ trong cổ tích mà trong xanh  mãi trong tâm khảm. Điều gì đã thu hút con em hướng về và trở thành nơi lưu giữ hồn quê thôn dã? Phải chăng là nét kiến trúc , hình thể làng Quỳnh cũng như của các nhà dân rất độc đáo, mang tính chất của một làng cổ Việt Nam và cách đối nhân xử thế của của người trong làng nghĩa tình trọn vẹn?.
Người đi xa về làng, từ xa đã thấy  cây đa,  cây gạo vượt hẳn trên màu xanh đậm của các ngọn cây trong làng,  hai ngọn cây c thụ  như hai bàn tay tha thiết vẫy chào. Tháng ba, hoa gạo nở đỏ ối một vùng trời xanh, khiến ai cũng nao nao, rạo rực, xao xuyến nhớ. Hai cây này là nơi nghỉ mát cho khách qua đường, là nơi vui chơi nô đùa của con trẻ các thế hệ người làng Quỳnh. Mẹ tôi thường bảo tôi “thần cây đa ma cây gạo các con ạ, đi qua  nhớ ngã nón chào và đừng nói điều báng bổ.   Cụ Hồ Tùng Mậu thì vui vẻ  bảo “ trồng cây gạo là tiền nhân còn ẩn ý mong làng đủ gạo ăn.  Rộng ra là mong mỏi con cháu đời đời  có được “ lúa tốt , gạo nhiều” . Còn cây đa thì ước ao mọi gia đình đều có nhà cửa, gia đình êm ấm. Hai cây ấy là biểu tượng  cao quý  ở miền quê nông nghiệp, là dấu tích ban đầu của làng, là di sản thiêng liêng của cha ông đời trước để lại. Ngày xưa con  người sống nhờ vào tự nhiên, coi vạn vật hữu thần hay vạn vật hữu linh, rất sung kính tự nhiên và sống hiền hòa với tự nhiên. Thực ra, nói như ngôn  ngữ ngày nay là, bảo vệ môi trường sống của con người.
 Sau này hai cây đó đã bị chặt đốn đi làm bàn nghế cho học sinh nhưng rồi con cháu đã trồng lại. Nay cũng đã to cao sừng sững.
Cạnh cây đa và cây gạo là cổng xây làng Quỳnh. Nó hiện hữu hoành tráng vừa  uy nghiêm lại vừa mang dáng dấp của một cổng làng cổ Việt Nam với các nét kiến trúc uốn lượn, cổ kính. Qua cổng làng, bên trái là một cụm quần thể di tích văn hóa lịch sử mà ít làng có được. Đó là bia mộ và nhà thờ Hoàng Giáp Quỳnh Quận Công Hồ Phi Tích. Tiếp đến là nhà bia tưởng niệm nữ sỹ Hồ Xuân Hương, Bà chúa thơ nôm.  Rồi đến lăng mộ nhà cách mạng tiền bối tiêu biểu Hồ Tùng Mậu - người cùng hoạt đông hải ngoại với lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc  buổi cách mạng còn trứng nước.  Và bên phải  là bia tưởng niệm liệt sỹ Anh hùng quân đội  Cù Chính Lan,  một trong những anh hùng đầu tiên của cách mạng Viêt Nam.
Đi vào sâu hơn, chếch về phía bên phải cách một quãng ngắn,  là ngôi đền cổ kính  thờ “ Mộc lôi linh ứng thiên thần”  và tứ vị thành hoàng làng, Dực Bảo Trung Hưng Linh Phù Chi ThầnĐền rất thiêng, ngày xưa hễ nắng lâu ngày dân làng cầu mưa thì được ngay. Rõ nhất là hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, các vị thần đã đẩy bom ra khỏi làng cho nỏ nổ ngoài đồng không mông quạnh, vì vậy trong chiến tranh, làng Quỳnh không có một quả bon nào trúng vào khu dân cư.  Đúng ra cũng có một quả rơi trúng vào một gia đình đang có nhiều người ở nhà, nhưng bom không nổ, nên không ai việc gì.
Cổ kính và hiện đại
Làng Quỳnh quê tôi là một ngôi làng nổi tiếng của Việt Nam với số người đỗ đạt.  “ Bắc Hà Hành Thin - Hoan Diễn Quỳnh Đôi” , nhiều ông nghè ông cử, thượng thư, thị lang. Xứ Bắc là làng Hành Thiện, mà x Hoan Diễn là làng Quỳnh Đôi. Hoan Diễn đây ở trong “Hoan Diễn do tồn thập vạn binh” là một vùng rất rộng thời Trần.  Giữa làng là một ngôi đình làng cổ uy nghi cổ kính được xây dựng từ thế kỷ thứ XIX,  đã được xếp hạng Di tích lịch sữ - văn hóa quốc gia . Ngôi đình này có những cột lim to người ôm không xuể . Trong làng còn có năm cái giếng cổ  với niên đại cách đây hàng trăm năm đã được bảo tồn. Giếng làng thì làng nào cũng có, nhưng giếng đẹp, sâu, nước trong và thơm, dù hạn hán mấy cũng không bao giờ hết nước gắn với bao nhiêu là huyền tích và thần tích nhưng không phải làng nào cũng bảo tồn được như làng Quỳnh.
Cũng vẻ rêu phong cổ kính như đình làng là ba nhà thờ đại tộc của họ Hồ, họ Nguyễn và họ Hoàng, đây là ba ông tổ đã tạo lập và xây dựng nên làng Quỳnh Đôi . Và cũng đặc biệt là Quỳnh Đôi còn tồn tại hơn một trăm nhà thờ các họ tộc, chi họ trên địa bàn kiến trúc cổ, được đầu tư xây dựng và  trùng tu nâng cấp thường xuyên
Nhưng có lẽ đến với làng Quỳnh, không ai là không  cảm nhận được sự yên bình vốn có của làng quê Việt nam xa xưa, dẫu bây giờ Quỳnh Đôi đã rất giàu và rất hiện đại. Xây dựng và bảo tồn sinh thái, môi trường sống cũng rất tốt.  Những con đường hay ngõ xóm trong làng, thay cho cỏ mọc um tùm hoặc bê tông vào tận cổng  là những dãy bờ rào bằng hoa và cây cảnh trồng  hai bên đường xanh mướt và sắc hoa rực rỡ.Tấc đất bây giờ là vàng” ai cũng nói vậy nhưng hầu như dân làng Quỳnh ai cũng dành vài ba thước đất phía trước sân, dọc lối đi  để tạo cho nhà mình một vườn hoa nho nhỏ với mươi lăm chậu cây cảnh. Ngay tại trung tâm xã, bên cạnh những nhà cao tầng là nơi làm việc của các cơ quan chính quyền, đoàn thể, còn có một  hồ rông, tượng đài đổ bóng trên bãi cỏ xanh và lá cổ thụ vừa rụng xuống. Hồ sen rộng ở đây đẹp như thường thấy ở Kim Liên quê Bác, những ngày hè sen nở tím ngắt, tỏa hương thơm nồng nàn.
 Ở đây, nhà cửa được xây dựng theo kiểu kiến trúc của làng quê Việt, vừa cổ kính và cũng vừa hiện đại. Lấy vẻ đẹp tự nhiên, truyền thống làm nét chính trong kiến trúc, công năng gắn với văn minh, tiện nghi và một môi trường trong lành. Trăm phần trăm gia đình dùng bếp ga, tám mươi phần trăm có nhà vệ sinh tự hoại và tắm nóng lạnh, sáu mươi phần trăm sử dụng máy điều hòa nhiệt độ.
Và thật lạ, khi hàng hóa tràn ngập vào tận các quán xá trong ngõ ngách, thế mà người làng Quỳnh sáng sáng vẫn giữ thú vui được đi chợ Nồi  mua sắm tại phiên chợ quê có từ mấy trăm năm nay rất giản dị mà sầm uất, từng dãy hàng cây nhà lá vườn tươi roi rói. Chợ Nồi họp tháng ba mươi phiên, mua bán  những  sản vật nhà nông và  sản phẩm làng nghề truyền thống lâu đời. Như bánh đúc, bánh đa, bún, ruốc, rau câu, rau sam vv..  Thế mà kể cả thời chiến tranh ác liệt, chợ chưa nghỉ ngày nào, thế mới lạ.
Phúc trạch yên ấm
Thời hợp tác xã nhiều nơi, qua biến động bãi biển nương dâu,  sáp xếp lại giang sơn đã làm thất lạc  mồ mả tổ tiên ông bà, dẫn đến tranh dành đánh nhau giữa các dòng họ,  các gia đình, khi xây dựng nghĩa trang. Nhưng ở Quỳnh đôi thì khác,  hiếm nơi nào được như  vậy.  Việc này được làm rất tốt nhờ  ý thức sâu xa vốn có từ ngàn xưa. Có lẽ không có làng xã nào từ khi khai cơ lập ấp dài hơn sáu trăm năm  rồi mà vẫn còn giữ nguyên được tất cả các phần mộ của tổ tiên từ thế hệ thứ nhất đến giờ. Các dòng họ hầu như không thất lạc ngôi mộ  nào.  Cả vùng, cả miền bắc khi bỏ ruộng vào hợp tác xã thì qua bao nhiêu biến động, nhập vào tách ra, kênh mương đường sá, đến cả đình chùa miếu mạo linh thiêng cũng sáp nhập nhưng không hiểu sao Quỳnh Đôi vẫn yên ả. Nghĩa trang ba trăm năm vẫn nguyên vẹn, từng ngôi mộ đều còn bia, ghi công tích, danh tính…  theo thế thứ từ trên xuống dưới, quy củ, ngăn nắp và gia phả không thất lạc, tiến tới viết hồi ký gia đình, chi họ, dòng họ.
 Điều đặc biệt nữa là, trừ các ông tổ và những người đỗ đạt, có công với đất nước thì phần mộ có to hơn, còn lại tất cả hàng ngàn ngôi mộ đều tăm tắp một hạng, thể hiện một quan điểm, dù nhà giàu, hoặc có con làm to đến mấy, khi đã chết, mọi người đều bình đẳng như nhau. Con cháu làm mộ cho ông bà cha mẹ không phải tính toán, băn khoăn suy nghĩ gì vì đã có vị trí và khuôn mẫu quy theo định chung của làng.  Đó là sự công bằng mà cũng là sự khiêm nhu trong tính cách người làng Quỳnh.
Người làng Quỳnh  xa quê thành đạt ở mọi miền đất nước, nhưng khi mất thì đưa hài cốt về nghĩa trang của dòng tộc quê hương, để con cháu sống ở nơi xa thường xuyên về hương khói cho người đã khuất, đó cũng  là dịp thăm lại quê hương, xóm làng.
Làng khoa bảng
Làng Quỳnh xưa, Quỳnh Đôi trong Hoan Diễn là đất quan lại, thượng thư, thị lang, tổng đốc triều vua nào cũng nhiều nhưng làng xưa nay đều trọng kiến thức, “trọng học hơn trọng quan”, rất tôn  vinh những bậc đại khoa. Từ tời xưa, năm 1638, làng Quỳnh đã lập Hương ước của làng, nghĩa là cách thời nay hơn ba trăm năm, nhằm san định lễ nghi, qui chế, đạo lí, cách ứng xử với người trên kẻ dưới, với xóm làng, với người hàng xứ, với thiên nhiên sông nước một cách rất cụ thể, nghiêm ngặt. Qui cách ứng xử chung, “trọng đạo Thánh hiền, quí người văn hoc, khuyến khích nghề ruộng, hậu việc ma chay, bỏ việc xa xỉ, cấm điều gian dối”. Đối với người có chức săc hay đỗ đạt, “hễ ai đỗ tam khôi tiến sĩ, khi rước về, cả bản hội đều phải có mặt, áo mũ chỉnh tề, đến đình làng để đón” Trong các lễ hội ở đình làng, qui định những người học cao đỗ đạt làng có ưu đãi riêng. Chẳng hạn, khi ra Đình làng, lúc ở văn hội thì ngôi thứ chỗ ngồi, xếp theo học vị. Người đỗ cao thì ngồi trên, quan to mà đỗ thấp hơn thì vẫn phải ngồi chiếu dưới.  Ai đỗ Cử nhân được làng rước từ Quỳnh Hậu về, ai đỗ Tú tài thì họ tộc tự rước. Ai đỗ Tiến sỹ   khi mất đến ngày giỗ hàng năm, làng có lễ và cử đoàn chức sắc đến cúng. Những người đỗ đạt, nếu không có con trai sau khi mất, được làng thờ ở nhà thờ Hiền từ của làng.
Ngoài ra còn có một sự tôn vinh nữa từ bao đời nay đã gắn với bao thế hệ con người ở quê tôi, hồi còn nhỏ đi đưa đám ma đã in đậm trong tâm trí của tuổi thơ tôi. Đó là quy định thành nếp -khi khiêng quan tài người quá cố đi qua nhà thờ của những bậc đỗ học vị  cao -là phải hạ đòn khênh quan tài- có nghĩa là đang khiêng trên vai thì hạ xuống khiêng tay, đi qua nhà thờ ấy mới đưa lên vai như cũ. Ngày nay làng Quỳnh vẫn giữ được nét văn hóa đó. Khi đẩy xe tang hoặc ô tô chở quan tài đi qua nhà thờ các cụ đó thường  dừng lại một lúc, sau là đi chậm lại, cũng là cách“xin phép” rồi mới đi  bình thường. Ngay cả đám  trẻ con tinh nghịch chúng tôi hồi nhỏ cũng đã biết không đứa nào dám chỉ tay vào các nhà thờ các cụ ấy, vì người lớn đã bảo chỉ tay vào đó các cụ phạt về nhà sẽ bị cụt ngón.  Điều này đã trở thành một nét văn hóa đẹp của tất cả mọi người trong làng trong xã, thể hiện lòng kính trọng tôn vinh người có học vấn cao và đức độ. Chính những quan điểm đó đã nâng cánh cho những người con làng Quỳnh phấn đấu thành đạt.
       Đối với môi trường sống hay tài nguyên thiên nhiên, “Ai đánh cá chỉ được dung lưới thưa, cấm dung lưới dày, nếu không cứ lời làng sẽ xé lưới hoặc đem về đình làng đốt”  nhằm để bảo vệ nguồn lợi thiên nhiên cho con cháu đời sau. Với các thày đồ , “đã làm  thy dạy học thì phải nên giữ gìn mà tự trọng lấy mình, khi ăn nói, lúc đứng ngồi cho xứng đáng là người thy, “khi đi dạy xa không được ở trọ nhà các đàn bà ngóa.  Với người trong làng, “có người trên, hơn tuổi phải đứng dậy chào’, “ đi đường gặp người già hay trẻ nhỏ có mang vác gì thì phải mang hộ, nếu dửng dưng là bị phạt”. Bỏ bạn ốm giữa đường mà về, đi ra ngoài nói xấu người trong làng, ngồi không nói xấu nhau, xích mích nhau không để làng xử trước, mà kiện lên quan ngay…đều bị phạt. Phàm ai uống rượu thì phải có điều độ, không nên uống nhiều, nếu ai uống quá say, nói ầm ỹ huyên náo, nói cạnh khóe người ta, khen chê Chính quyền trong làng, chửi bóng chửi gió làng xóm láng giềng, trêu ghẹo đàn bà con gái, đều là vì rượu làm nên cả, làng bắt phạt lợn 1 con giá sang tiền là 1 quan 5 tiền.Phục vụ sản xuất nông nghiệp hương ước cũng ghi rất rõ  Các rãnh cống là nơi để cho nước chảy khi có nước mưa ngập lụt, ở dưới cống Hói Nồi, cống Ông Hành đã mở rồi thì các cống ở trên đều phải mở cả cho nước chảy, không được ngăn lấp để thả lừ đơm cá làm hại lúa má, ai làm trái điều ấy phải phạt lợn 1 con giá 1 quan 5 tiền.
Làng của những ông Đồ Nghệ
Hình ảnh Ông Đồ ngồi trên chiếc chõng tre dạy Tam tự kinh cho năm bảy đứa học trò tóc trái đào trong tranh dân gian là hình ảnh ông Đồ của cả nước Việt nhưng nhất định trong đó phần lớn là ông Đồ Nghệ, tầng lớp làm nên giai thoại trứ danh Con cá gỗ thì không ai khác mà hẳn nhiên là ông Đồ Nghệ. Mà không phải chỉ riêng Quỳnh Đôi nhưng ông Đồ từ làng Quỳnh này lại rất nhiều. Đất học có truyền thống, đến khoa thi, Quỳnh Đôi không có đến hàng ngàn nhưng cũng phải đến hàng trăm sinh đồ lều chõng. Và khi lễ xướng danh kết thúc, hàng trăm sinh đồ làng Quỳnh ấy không phải ai cũng đỗ ông Nghè, ô Cống, không phải ai cũng ông Cử, ông Tú mà nhiều nhiều rơi vào phận hỏng thi. Ai kiên nhẫn thì dùi mài kinh sử đợi ba năm nữa, còn không thì “tứ xứ hành” đi làm ông Đồ ngồi dạy Nhân chi sơ…  
Đỗ đạt thì được bổ đi làm quan, không đỗ thì đi làm thày đồ, đi đâu cũng gặp thày đồ Nghệ làng Quỳnh.  Năm 1856 làng Quỳnh  1.856 khẩu,  đến năm 1945 lên 4.500 khẩu . Từ đó đến nay đã trên 70 năm dân số ở xã  cũng xấp xỉ bốn ngàn rưởi đến năm ngàn người. Thời trước đi làm ông đồ, thời nay đi làm can bộ, công nhân viên nhà nước. Ủy ban xã bao giờ cũng tạo điều kiện tốt cho mọi người đi thoát li, khuyến khích đi, đi để học tập khoa học kĩ thuật, học quản lí, mới có thể thành đạt, thành người đảm nhiệm trọng trách lớn trong xã hội, đưa công sức xây dựng đất nước và có cơ hội thành công và trở về giúp đỡ xây dựng quê hương Quỳnh Đôi. Đó không những là trách nhiệm mà là tấm long của người con xa quê. Số người làng Quỳnh đi làm cán bộ trên khắp cả nước và thế giới hiện nhiều hơn số dân còn ở lại làng. Trong số 4700 người sinh sống tại làng Quỳnh thì cũng có đến 3300 người hưởng lương hưu hoặc phụ cấp của nhà nước.
Làng của những tấm lòng hiếu nghĩa
Những đứa con ra đi từ bờ tre gốc rạ làng Quỳnh nay thành đạt, trở thành những giáo sư, tiến sĩ, bộ trưởng, thứ trưởng, chủ tịch, bí thư tỉnh, giám đốc, viện trưởng, tướng lĩnh, tỉ phú, đại tỉ phú…không ai lơ là hay ngoảnh mặt lại với nơi chôn rau cắt rốn của mình. Không  một ai. Nói đó là tính cách của người làng Quỳnh hay là đạo lí, là văn hóa của một ngôi làng mà biết dựng Hương ước cho dân sống theo đạo lí cách đây những ba trăm năm, cũng được. Ngược lại, những người thành đạt ấy, trở lại thành tâm và hăng hái cống hiến, vun đắp cho nơi mình sinh ra.
Năm 1528 ông Hồ Nhân Hy, đỗ Giám sinh, đã về quê dựng Nhà thánh, dựng chùa Quỳnh Thiên, đổi tên Trang Thổ Đôi thành làng Quỳnh Đôi.  Thượng thư bộ Lễ Hồ Sỹ Dương đã cung tiến cho làng 24 mẫu ruộng làm binh điền và 40 mẫu ruộng tốt khác làm ruộng  học điền. Ông Hồ Phi Tích, Thượng thư bộ Hình, tước  Quỳnh quận công, đã bỏ tiền thuê công mua ruộng đắp con đường chính từ Quỳnh Hậu xuống Quỳnh Đôi dài hai cây số, làm hai cống đá, làm đường xuống Hói Nồi.  Ông Phạm Đình Toái bỏ công, bỏ tiền  dựng  Đình Làng năm gian gỗ lim to lớn. Thời nay, ông Hồ Đức Việt một người học giỏi nhất làng sau, khi trưởng thành, ông đã ủng hộ xây dựng trường học, nhà truyền thống và thư viện xã . Ông Phan Tam Đồng, ông Nguyễn Như Vỹ hỗ trợ xây dựng giao thông, đường điện….  Cụ Lê Xuân Kiêm định cư ở Pháp xây dựng và cung cấp trang thiết bị khám chữa bệnh hiện đại cho Trạm xá xã phục vụ nhân dân quê hương. Cụ còn xây dựng Trường mầm non cho các cháu mẫu giáo. Hiện nay con cháu của cụ đang có kế hoạch xây dựng nhà Dưỡng lão cho người cao tuổi của xã. Thiếu tướng công an Hồ Sỹ Tiến đã vận động bạn bè người thân xây dựng cổng làng. Bà Phan Thị Quỳnh Như là con gái của làng đi làm ăn xa hàng chục năm,  xây cho làng một nhà tang lễ có quy mô của nhà Tang lễ quốc gia. Bà Phạm Thị Loan - nguyên ĐBQH xây hồ sen ngay trung tâm. Bà Hồ Thị Kim Thoa, nguyên thứ trưởng bộ công thương xây bia tưởng niệm Hồ Xuân Hương. Thiếu tướng  Hồ Sỹ Hậu, thiếu tướng  Phạm Dũng Tiến và Các tướng lĩnh con em của làng đã cùng nhau góp tiền góp sức xây dựng Bia tưởng niệm anh hùng liệt sỹ Cù Chính Lan. Ông Hồ Đức Nhân cải tạo và nâng cấp bia tưởng niệm liệt sỹ. Ông Dương Minh Ngọc xây bia tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ  1930 - 1931 và xây dựng vườn cây khuôn viên thể dục cho làng. Con em đang công tác ở huyện luôn hướng về quê hương cùng nhau xây dựng cổng chào điện tử, cột cờ Đồng tương , khôi phục lại cống đá và một số di tích khác trong làng.
 Dù xa hay gần, không kể địa vị cao thấp, là  con em, cháu chắt làng Quỳnh đều muốn hướng về quê hương nhiều hơn, luôn muốn đóng góp cho quê hương nhiều hơn. Có khi chỉ là: trồng cây cổ thụ hai bên đường, làm cổng ra nghĩa trang, xây dựng đường điện sáng trong làng, hoặc một số thiết bị văn hóa của dân làng vv…là nhưng tấm lòng đáng ghi nhận.
Thêm nữa, người làng Quỳnh, từ thời xưa, dù làm to đến mấy khi về quê đến đầu làng đều xuống kiệu, xuống cáng hoặc xuống ngựa,  đi bộ về nhà. Và cũng từ xưa đến nay người làng Quỳnh có đi xa bao lâu, làm bất cứ việc gì trong nước hay ngoài nước đều giữ nguyên được  âm giọng Quỳnh Đôi.  Gặp nhau ở đâu đó, ở Nga, ở Pháp, ở Mĩ, dù không  biết nhau nhưng,  nghe giọng nói, biết ngay  là người  làng Quỳnh Đôi.
Thương người như thể thương thân
Tôi nói với bạn tôi rằng, giọng nói, tập tục, nguồn gốc…là những yếu tố tạo nên sự cố kết, tính bền vững của cộng đồng làng Quỳnh của tôi, nhưng bạn tôi bảo, chính tình thương yêu, lòng vị tha giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng làng mới là điều cốt yếu, quan trọng. Có lẽ đúng như vậy thật.
Các cụ kể  trong nạn đói năm 1945, làng Quỳnh vượt qua được, không có ai bị chết đói. Ấy là vì nhiều nhà giàu có, trong cơn hoạn  nạn của cả nước,  đã biết chia sẻ bát cơm thìa cháo ít ỏi của mình cho người hoạn nạn.  Nhiều người không dư dả gì nhưng  đã đưa  cơm, cháo, khoai luộc, sắn sẵn ngoài cổng hoặc đưa ra đình làng cho người thiếu đói đến ăn. Biết “thương người như thể thương thân” nên cả làng không ai bị chết đói.
 Rõ ràng lòng nhân ái, tình yêu thương con người, trong đó có tình làng nghĩa xóm, máu mủ ruột rà, là sợi dây cố kết chắc chắn nhất, vững bền nhất cho sự phát triển  công đồng làng.  Trong “Quỳnh Đôi hương biên” làng Quỳnh họp lại cùng nhau ăn thề: “Người  trong làng phải thương yêu đùm bọc lấy nhau như anh em ruột thịt”. Đó là năm thứ 4 Mậu Dần, hiệu Dương Hòa Lê Thần Tông(1638) ngày 20 thang 6.  Mỗi nhà đều đứng lên đọc Lời Thề : Tôi là....tuổi...ở làng Quỳnh Đôi cùng vợ con tôi ở trong làng, nếu có ăn trộm gà, lợn, lúa má vải lụa và tôm cá trong đầm hoặc làm sự gì không thuận làng xóm thì đến khi chết không được xin mọi người đưa ma. Hoặc cùng với người có tội, nói ra có ý không đồng lòng hợp sức với làng, hoặc có kẻ oán làng vì việc công để vợ con chuyện trò với nó, tỏ ý oán thán thì tôi xin uống chén máu này, cúi đầu xin thần linh soi xét. Đây có lẽ là hội thề độc đáo nhất trong lịch sử Viêt Nam Thề thương yêu đùm bọc nhau.
        Ngày nay, tinh thần đoàn kết tương thân tương ái trong làng, trong xã của lời thề ba trăm năm xưa vẫn còn nguyên vẹn trong ý thức mọi người. Ai già yếu đơn côi không nơi nương tựa thì đã có gia đình khác có điều kiện tự nguyện phụng dưỡng suốt đời.   Giàu không cao ngạo,  nghèo không tự ti. Với khách vãng lai hay khách du lịch cũng vậy, ân cần, cởi mở và sẵn sàng giúp đỡ.
Làng Quỳnh của tôi,  là một địa chỉ văn hóa, chưa đầy km2 mà đã có tới 10 di tích lịch sử cấp quốc Gia đã được xếp hạng,  mới đây Sở du lịch Nghệ An đã đưa làng Quỳnh  vào tua du lịch nội địa với những điểm tham quan:  Các di tích lịch sử văn hóa - tâm linh; Những  xưởng sản xuất hương trầm gia truyền nổi tiếng hàng trăm năm nay,  Thưởng thức ẩm thực  dân dã nổi tiếng “bún, giá, cá, ruốc” còn truyền tụng trong dân gian. Và sâu hơn, cao hơn Làng Quỳnh với trầm tích văn hóa khoa bảng, với hội thề của lòng thương người dài mấy trăm năm, không nơi nào có được.
          Đến đây, tôi muốn dẫn lại câu “Bắc Hà Hành Thiện, Hoan Diễn Quỳnh Đôi” để nói Quỳnh Đôi  lắm quan, nhiều khoa bảng, triều nào cũng có người đỗ đạt. Cũng là tôi muốn nói, có nhân kiệt như vậy là do địa linh, có một Quỳnh Đôi mà mỗi bờ tre gốc rạ cũng đầy huyền tích và giai thoại như vậy là do tổ tiên, những người đầu tiên đến khai trang lập ấp dựng làng, mộ dân, lập Hương Ước làng, xác đinh một nền đạo lí làm người cho dân làng mà mà mảnh đất này trở thành  địa linh. 
Tôi không thể không ngạc nhiên khi lần đầu được đọc hương ước cuả làng,làm cách đây hơn ba trăm năm, đã sớm san định những lễ nghi, đạo lí làm người cho làng xã mình mà có tầm bao quát cả thiên hạ, cả muôn đời, có những điều ngày nay mới hiểu ra và thấy cn thiết như không đánh bắt cá nhỏ, và hình phạt rất nghiêm khắc: xé bỏ lưới, không xuê xoa, không hối lộ cân cá rồi thôi. Hương Ước của làng mà sánh ngang tầm với luật lệ, hiến chương, cương lĩnh, đạo lí dẫn dắt thiên hạ vậy!  Lại được mọi người dù sang hay hèn đều tuân thủ một cách nghiêm minh. Vì thế cho nên, mới có một làng Quỳnh xưa Triều vua nào cũng có người đỗ đạt cao, và một làng Quỳnh hôm nay đóng  góp cho nước nhà nhiều quan chức, tướng lĩnh, nhà khoa học, nhà thơ nhà văn và người làng Quỳnh ở xa hay gần đều hướng về quê hương bản quán, sống nhân hậu nghĩa tình vun đắp thêm truyền thống quê hương ngày càng đẹp giàu ./.
                                                                                                                                                     Bút ký của: Hồ Ngọc Quang  

Tác giả bài viết: Nhà báo Hồ Ngọc Quang

Nguồn tin: quynhdoi.gov.vn

Tổng số điểm của bài viết là: 9 trong 2 đánh giá

Xếp hạng: 4.5 - 2 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

dichvucongqd
Chăm sóc khách hàng điện lực miền bắc
TTGT Việc làm Nghệ An
Trả lời cử chi
Tra cứu tin nhắn Bảo hiểm
Tra cứu Bảo hiểm trực tuyến
Giải quyết khiếu nại tố cáo
Dự báo thời tiết
Ngày này năm xưa
Thăm dò ý kiến

Bạn có phải là người làng Quỳnh?

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập15
  • Hôm nay435
  • Tháng hiện tại15,430
  • Tổng lượt truy cập78,247
GIỜ LÀM VIỆC
Mùa Đông
Buổi sáng 7h30 - 12h
Buổi chiểu 13h30 - 17h
Mùa Hè
Buổi sáng 7h - 11h30
Buổi chiều 13h30-17h
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây