Quỳnh Đôi là cái nôi của văn học với Bà Chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương, tác giả những bài thơ lẳng lơ, táo bạo nhất bên cạnh hàng chục mối tình lãng mạn trong đó có cả đại thi hào Nguyễn Du. Trên hết làng Quỳnh
(Quỳnh Đôi, Quỳnh Lâm) là nơi phát tích của 6 vị Đế vương: Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Quang Toản và Hồ Chí Minh. Tất cả đều là họ Hồ xuất phát từ một ông tổ trải qua 3 triều đại cách nhau vài trăm năm: nhà Hồ, nhà Tây Sơn và thời đại Hồ Chí Minh. Đó là 3 triều đại đậm nét trong lịch sử Việt Nam và lừng danh trên thế giới vì những chiến công hiển hách và những cải cách cải tạo táo bạo, đẫm lệ và đẫm máu.
Muốn hiểu tại sao anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và cha con Nguyễn Sinh Sắc, Nguyễn Sinh Cung (tên thật của Hồ Chí Minh) đều xuất xứ từ dòng họ Hồ làng Quỳnh, Nghệ An, ta phải xem lại tông phả họ Hồ từ ông tổ Hồ Hưng Dật.
Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên, Hồ Hưng Dật là người Triết Giang (đất Ngô Việt) đậu Trạng Nguyên, đáng lẽ phải được giữ trọng trách trong triều đình nhưng chỉ được cử (hay để lánh nạn?) sang đất Giao Châu một nơi xa xôi nhận chức Thái Thú Diễn Châu vào khoảng năm 947 – 951 thời Hậu Hán.
Trong lịch sử Trung Hoa, Đường Nghiêu và Ngu Thuấn là hai bộ tộc khác nhau: Nghiêu thuộc Hán tộc nhường ngôi vua cho Thuấn thuộc Việt tộc. Nghiêu Thuấn là triều đại thịnh trị của cổ Trung Hoa. Con Ngu Yên (dòng dõi Ngu Thuấn) gọi là Hồ Công nên sau này dùng chữ Hồ làm họ. Hồ Hưng Dật là con cháu vua Ngu Thuấn, tộc Việt phương Nam Trung Hoa ( Triết Giang, xưa là Ngô Việt) thuộc đất Bách Việt là tộc Việt cuối cùng bị Hán hóa – dân tộc Việt Nam là Lạc Việt duy nhất không bị Hán hóa. Sau này Hồ Quý Ly (di duệ của Hồ Hưng Dật) lên làm vua, đặt quốc hiệu là Đại Ngu để nhắc nhở gốc tích mình từ đời Ngu Thuấn – chữ “Ngu” còn có nghĩa là “vui”, Hồ Quý Ly mong đem lại hạnh phúc cho người dân bằng những cải cách của mình.
Nhà thờ họ Hồ ở làng Quỳnh Đôi có câu đối: “Cổ nguyệt môn cao hệ xuất thần minh Ngu đế trụ”, nghĩa là họ Hồ [cổ + nguyệt] gốc từ vua Ngu Thuấn.
Làm quan được ít lâu, Hồ Hưng Dật lui về làm trại chủ tại hương Bào Đột, nay thuộc xã Quỳnh Lâm, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, vừa để lánh nạn (ông sinh ra trong thời Hậu Hán, Ngũ Đại loạn ly tranh giành) vừa để lập nghiệp sinh sống lâu dài. Nơi ông chọn cận sơn, cận thủy (thứ nhất gần núi, thứ nhì gần sông) là nơi dễ làm ăn: phía trước có sông Bào Giang, phía sau là rừng đồi nhấp nhô chạy dài đến vùng Đường Khê Thượng (nay là huyện Nghĩa Đàn) và phủ Quì Châu tỉnh Nghệ An. Thật là một vùng hiểm trở cho người ở ẩn, lại có đất lở bazan màu mỡ. Trong thời gian làm Thái Thú Diễn Châu, ông là bạn đồng liêu với Đinh Công Trứ, thứ sử Hoan Châu (cha của Đinh Bộ Lĩnh). Khoảng năm 965, Đinh Bộ Lĩnh dấy binh dẹp loạn sứ quân, tuyển quân ở Châu Diễn có đến gặp ông để thăm dò xem ông có ý dấy quân hay không. Ông bày tỏ chỉ mong làm tròn phận sự người dân và góp ý kiến với Đinh Bộ Lĩnh về kế sách thống nhất các sứ quân. Và để cho Đinh Bộ Lĩnh yên lòng, ông rút gươm ra thề “Vạn đại vi dân”, có nghĩa là vạn đời làm dân hay vạn đời vì dân. Ông lo việc cày ruộng, chiêu mộ dân phiêu tán, lập ấp trại không chỉ ở hương Bào Đột mà còn kéo dài tận Đường Khê Thượng (huyện Nghĩa Đàn ngày nay) – Con cháu Hồ Hưng Dật càng ngày càng đông đảo. Họ Hồ thành 1 cự tộc tại Châu Diễn. Con cháu có người lấy công chúa nhà Lý là Nguyệt Đích. Gia phả không được ghi liên tục qua 11 đời trong suốt thời gian gần 300 năm. Mãi đến thời nhà Trần mới chép Hồ Liêm (đời thứ 12) ra Thanh Hóa làm con nuôi cho Tuyên phủ sứ Lê Huấn, nên đổi thành họ Lê. Cháu 4 đời sau là Lê Quý Ly tức Hồ Quý Ly (1336 – 1407), sau trở thành Hoàng đế nước Đại Ngu . Còn Hồ Kha (đời thứ 13) từ Bào Đột (Quỳnh Lâm, Quỳnh Lưu) đi tìm đất mới qua dấu vết của đất liền đang lấn dần ra biển, xuống sách Hoàn Hậu xem xét địa thế, thấy trang Thổ Đôi là vùng đất chưa khai phá, phong cảnh hữu tình nên lập ấp tại Thổ Đôi Trang (sau này đổi thành Quỳnh Đôi).Nhà thờ họ Hồ ở làng Quỳnh Đôi (huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An) có bức hoành phi đề “Nhất bản năng song cán”, một gốc sinh 2 cành:
+ Tông phái Thanh Hóa: từ Hồ Liêm (đời 12) đến Hồ Quý Ly (đời 15).
+ Tông phái Châu Diễn: từ Hồ Kha (đời 13) lại chia làm 2 ngành:
Ngành trưởng: Hồ Hồng (đời thứ 14) tổ họ Hồ Quỳnh Đôi (Quang Trung Hồ Thơm, Hồ Xuân Hương, Hồ Chí Minh) và họ Hồ Thuận Hóa (Hồ Hồng lấy vợ An Cựu sinh ra dòng họ Hồ Đắc).
Ngành thứ: Hồ Cao (đời 14) tổ họ Hồ ở Quỳnh Trạch (Thọ Thành, Yên Thành)
Con Hồ Cao là Trạng Nguyên Hồ Tông Thốc, con Hồ Tông Thốc là Hồ Đốn đậu Trạng Nguyên. Con Hồ Đốn là Hồ Thành đậu Trạng Nguyên:
Một nhà ba Trạng Nguyên ngồi
Một gương từ mẫu cho đời soi chung.
Ba con trai của Hồ Thành đều đậu Tiến Sĩ triều Lê. Hiện còn 12 sắc phong của 3 Trạng Nguyên triều Trần, 3 Tiến Sĩ triều Lê tại nhà thờ họ Hồ ở Thọ Thành. Cháu Trạng Nguyên Hồ Thành là Hồ Bỉnh Quốc, đậu Hoàng Giáp (1577) đời Lê Thế Tông làm đến Lại bộ Thị lang. (đoạn này về phả hệ họ Hồ phỏng trích theo cuốn Họ Hồ trong cộng đồng dân tộc Việt Nam của Hồ Sĩ Giàng, NXB TP. HCM, 2003).
Xem sơ đồ sau ta sẽ định được liên hệ dòng họ giữa Hồ Quý Ly, Hồ Thơm Nguyễn Huệ và Hồ Xuân Hương:
Nguyễn Huệ vốn họ Hồ, di duệ của Hồ Quý Ly. Tổ tiên của Huệ phải phiêu bạt vào Bình Định do cuộc chiến tranh Trịnh Nguyễn. Vào một năm quân Chúa Nguyễn ở Đàng Trong đánh tràn ra Nghệ An chiếm lấy 7 huyện ở phía Nam sông Lam (tức là Hà Tĩnh ngày nay). Họ Trịnh kéo quân vào đánh lại. Cuộc hỗn chiến dai dẳng nhiều năm (1656 – 1660) đem lại cho mảnh đất gian nan này thêm nghèo nàn chết chóc. Cộng vào đó là nạn cướp người đã xảy ra một cách dã man trắng trợn.
Nhà Nguyễn ở Đàng Trong vừa mới khai thác dải đất từ Bình Định trở vào, cần nhiều năng lực nên việc cướp người ở mạn Bắc sông Lam trở thành chủ trương và được thực hiện dưới nhiều hình thức tàn bạo: bắt tù bình, dụ người di cư vào mạn trong, tiến quân qua phía Bắc sông Lam hốt của, bốc người của từng làng rồi rút về. Những vùng sầm uất dọc bờ sông Lam như các huyện Chân Lộc, Nam Đường, Hưng Nguyên… có nơi trở thành hoang vu không còn một bóng người qua lại. Nhiều kẻ gian thương tổ chức mua bán trẻ con, nhiều bọn côn đồ rình bắt con nít, bịt miệng bỏ vào bao, gánh xuống thuyền, mang đến chợ, bán hàng chục một. Do đó ở Nghệ An mới có chuyện ông ba bị chín quai mười hai con mắt hay bắt trẻ con. Việc bắt người, bắt trẻ con lời trước mắt cho con buôn, lời lâu dài cho Chúa Nguyễn.
Theo truyền thuyết địa phương [đoạn này viết theo cuốn Nghệ An, đất phát nhân tài của Ninh Viết Giao], tổ tiên Nguyễn Huệ vào Nam không phải do nhà Nguyễn bắt tù binh hay do bị bốc hốt mà chính do bị bắt cóc theo kiểu “ông ba bị” như vừa nói trên.
Một số trẻ họ Hồ đã bị bắt bán vào Nam và được đưa về sống ở ấp Tây Sơn (làng Phù Ly gần An Khê, Bình Định). Số trẻ ấy phải mang một họ mới là họ Nguyễn. Chính tổ tiên Nguyễn Huệ là một trong số những trẻ bị đem về nuôi ở Phù Ly. Cha Nguyễn Huệ không thể không nhắc lại cho con cháu nghe để nhận biết quê hương tổ quán.
Xem phả hệ dòng dõi Hồ Sĩ Anh để hiểu vị trí của 3 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ và Hồ Xuân Hương đều thuộc đời 12 kể từ Hồ Hân là đời số 1. Hồ Phi Huyền hay còn gọi là Hồ Phi Thống (nhạc phụ nhà văn Đặng Thai Mai) thuộc đời 14.
Theo Bảo tàng Tây Sơn, tỉnh Bình Định, nguồn gốc gia tộc anh em Nhạc – Huệ – Lữ vốn dòng dõi họ Hồ ở Quỳnh Đôi, con cháu Hồ Thế Anh (còn gọi là Hồ Sĩ Anh, sinh 1618) trúng hội thi tam trường (tương đương phó bảng triều Nguyễn). Năm Vĩnh Thịnh thứ nhất đời Lê Thần Tông (1658) làm quan đến Hộ bộ Thị Lang tước Diễn Trạch hầu. Hồ Thế Anh sinh được 5 người con trai là Hồ Thế Viêm (sinh đồ), Hồ Phi Cơ (hội thi tam trường), Hồ Danh Lưu, Hồ Phi Tích (hoàng giáp) và Hồ Phi Đoan. Hồ Thế Viêm sinh Phi Khang. Phi Khang sinh được 5 người con trai là Hồ Phi Trù, Hồ Phi Phú, Hồ Phi Thọ, Hồ Phi Phúc, Hồ Phi Huống. Từ Quỳnh Đôi, Hồ Thế Viêm dời nhà lên Nhân Lý (tức Nhân Sơn thuộc Quỳnh Hồng – Quỳnh Lưu, Nghệ An), rồi lại đôn vào thôn Thái Lão, phủ Hưng Nguyên, Nghệ An. Từ Thái Lão, Hồ Phi Khang, Hồ Phi Phúc di cư vào Đàng Trong. Bước đầu làm ăn ở huyện Tuy Viễn (nay là huyện An Nhơn). Sau đó Hồ Phi Phúc lấy bà Nguyễn Thị Đồng ở Tây Sơn hạ sinh ra Nhạc, Huệ, Lữ và một gái út. Mộ của ông Hồ Phi Phúc và bà Nguyễn Thị Đồng còn di tích ở núi Long Cương thuộc làng Kiên Mỹ, Bình Khê, Bình Định.
Xin nhắc lại Hồ Hồng được cha là Hồ Kha giao cho tiếp tục khai phá Thổ Đôi Trang (sau này là làng Quỳnh Đôi). Nếu kể con Hồ Hồng là Hồ Hân đời số 1, đệ nhất thế họ Hồ Quỳnh Đôi thì đến:
* đời thứ 2, Hồ Ước Lễ đầu Thái Học Sinh,
* đời thứ 5, Hồ Nhân Hy, đậu giám sinh và Tạo Sĩ (Tiến Sĩ võ) làm quan triều Mạc tước Bao Vinh hầu, có công xây dựng làng Quỳnh Đôi, đổi tên Thổ Đôi Trang ra Quỳnh Đôi, xây dựng nhà thánh thờ Khổng Tử để chấn hưng việc học, xây dựng chùa Quỳnh Thiên, chợ Quỳnh Thiên (sau này gọi là chợ Nồi).
* Đời thứ 8: Hồ Sĩ Dương (1621 – 1681): đậu tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1652) làm tới Hình bộ Thượng thư kiêm Đông các đại học sĩ, tước Duệ quận công.
* Đời thứ 9: – Hồ Phi Tích (1665 -1754): đậu Hoàng Giáp khoa Canh Thìn (1700) làm quan đến Thượng thư bộ Binh, bộ Hình, tước Quỳnh quận công.
– Hồ Sĩ Tôn (1663 – 1728): đậu Giải Nguyên năm Đinh Mão (1687), đậu đầu khoa Ngự đề phúc thí thiên hạ sĩ vong (vua ra đề thi kén chọn người tài giỏi trong nước), làm quan Hàn lâm viện sử quán tu soạn, tước hầu.
* Đời thứ 10: Hồ Sĩ Tân (1691-738): đậu Tiến Sĩ năm Tân Sửu (1721), là giám sát ngự sử, tước hầu.
* Đời thứ 12: – Hồ Thơm (vua Quang Trung 1752 – 1792)
– Hồ Xuân Hương (1772 – 1822)
– Hồ Sĩ Đống (1738 – 1785) đậu Hội Nguyên, Đình Nguyên (Song Nguyên) khoa Nhâm Thìn (1772), giữ các chức: phó sứ sang nhà Thanh, Hộ bộ Thị lang, tước Giốc quận công.
* Đời thứ 13: – Hồ Bá Ôn (1843 – 1883) đậu Phó Bảng khoa Ất Hợi (1875), Án sát Nam Định, quyết chiến để giữ thành Nam Định đến chết. Con là Hồ Bá Kiện, cháu là Hồ Tùng Mậu, em là Hồ Bá Trị sinh ra con là Hồ Học Lãm. Toàn gia tận tụy hy sinh cho đất nước.
– Hồ Sĩ Tạo: đậu Giải Nguyên khoa Mậu Thìn (1868), nổi tiếng học giỏi tài hoa, làm tri phủ Quảng Trạch (thuộc Quảng Bình), bị giáng chức do tính tình khẳng khái và liên hệ với phong trào Cần Vương của vua Hàm Nghi. Ông từng dạy học ở nhiều nơi, môn sinh rất đông, nhiều người thành đạt, trong số đó có Đại học sĩ Cao Xuân Dục. Thời trẻ ông đã dạy học tại làng Mậu Tài, huyện Nam Đàn ở nhà điền chủ Hà Văn Cẩn, có các con là Hà Văn Toàn, Hà Thị Hy (thân mẫu ông Nguyễn Sinh Sắc). Ông đọc ai điếu khi bà Hà Thị Hy qua đời. Môn sinh cũ ở Nam Đàn mời ông xuống dạy học ở Sa Nam. Ông mất tại đó. Đám tang ông rất to có cả Đại học sĩ Cao Xuân Dục (học trò cũ) về dự. Có một số người trùng tên với ông là Tiến Sĩ Hồ Sĩ Tạo (Bình Định) và Cử nhân Hồ Sĩ Tạo (Quỳnh Thiện, Quỳnh Lưu, Nghệ An).
(Chép nguyên văn trong cuốn “Họ Hồ trong cộng đồng dân tộc Việt Nam của Hồ Sĩ Giàng, NXB TP. HCM 2003).
Trong chuyến đi thăm làng Quỳnh Đôi, đầu tháng 10 năm 2010. một quan chức UBND xã rất kiêu hãnh khoe với tôi “làng Quỳnh Đôi là quê nội của Bác Hồ” và nói khẽ vào tai tôi “bà Hà Thị Hy đã mang giọt máu thầy đồ Hồ Sĩ Tạo trước khi về làm dâu nhà họ Nguyễn làng Kim Liên, huyện Nam Đàn và ông Nguyễn Sinh Sắc (cha Bác Hồ) là con hoang thầy đồ Hồ Sĩ Tạo. Đây là câu chuyện “bất thành văn” nhưng là xác thực. Tác giả Hồ Sĩ Giàng ghi thêm: năm 1903 Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc cùng hai con là Nguyễn Sinh Khiêm và Nguyễn Sinh Cung (sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh) ra thăm làng Quỳnh Đôi đã ở nhà cử nhân Hồ Sĩ Tư (1865 – 1935). Chắc Hồ Sĩ Tư là con cháu Hồ Sĩ Tạo. Khi cách mạng tháng tám thành công, ông Nguyễn Sinh Cung không lấy tên Nguyễn Ái Quốc (tên hiệu nổi tiếng nhiều người biết) mà lại chọn tên Hồ Chí Minh (rất ít người biết) cho chức vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là có ý xác nhận gốc tích họ Hồ của mình. Con hoang có sao đâu, các thánh nhân, vĩ nhân thường là con hoang. Vả lại với gốc tích Quang Trung, Hồ Thơm giải thích phần nào chiến thắng Điện Biên Phủ dưới đất và trên không; với gốc tích Hồ Quý Ly diễn nghĩa phần nào các cải cách ruộng đất, cải tạo tư tưởng, v.v… Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh!
* Đời thứ 14: – Tiến Sĩ Hồ Sĩ Tuấn (1813-1862), tuần phủ Quảng Yên
– Cử nhân Hồ Trọng Đĩnh (1818-1882), Thừa thiên Phủ doãn, Công bộ Thượng thư.
– Cử nhân Hồ Sĩ Tư (1865 -1935), người tiếp đón cha con ông Nguyễn Sinh Sắc, Nguyễn Sinh Cung (Chủ tịch HCM) trong chuyến ra thăm làng Quỳnh Đôi.
– Cử nhân Hồ Phi Huyền (1879 – 1945), nhạc phụ ông Đặng Thai Mai.
– Nhà cách mạng Hồ Học Lãm (1883 – 1943) học viên trường quân sự cao cấp Trấn Vũ ở Đông Kinh (Tokyo,Nhật Bản), tốt nghiệp trường quân sự Bảo Định (Trung Quốc), giảng viên trường võ bị Hoàng Phố, bạn học với Tưởng Giới Thạch.
* Đời thứ 15: – Hồ Tùng Mậu tên thật là Hồ Bá Cự (1985 – 1951) chiến sĩ cách mạng, ủy viên Trung ương Đảng, Tổng thanh tra chính phủ VNDCCH.
Đọc đến đây, quý độc giả đã hiểu phần nào về họ Hồ nói chung và họ Hồ làng Quỳnh Đôi nói riêng, đã định được vị trí các danh nhân họ Hồ đã từng đổi tên lạc họ.
Cụ tổ Hồ Hưng Dật, đậu Trạng Nguyên, làm quan Thái Thú, lui về ở ẩn và cày ruộng khai khẩn đất đai, lấy phương ngôn “vạn đại vi dân”, mong làm dân vạn đời, phụng sự nhân dân muôn đời. Nhưng quả thật các con cháu di duệ của cụ đã “hậu sinh khả úy”, cũng mang nhãn hiệu áo vải, cờ đào… nhà tranh nhà sàn, giúp dân dựng nước nhưng lại còn rắp tâm thu phục đất Lưỡng Quảng, mong ước lãnh đạo vùng trời Đông Á, tiến lên thế giới đại đồng nhưng “công chưa hoàn thành” mà “đống xương vô định” đã cao… ngất ngất, “ triệu người vui lại có triệu người buồn”
Than ôi! Người muốn mà trời không cho!
Với bối cảnh phả hệ họ Hồ, bây giờ ta có thể dễ dàng thông qua lịch sử địa lý, nhân văn làng Quỳnh Đôi…
Năm 1314 đời Trần Minh Tông, thái tổ Hồ Kha (đời thứ 13) từ vùng sơn địa xuống sách Hoàn Hậu xem xét địa thể, thấy Thổ Đôi Trang là nơi có địa thế đặc biệt.
Phía Tây có núi Trụ Hải hình cái tán, tiếp theo là một dãy 7 ngọn đồi tiếp nhau, cây cỏ tốt tươi hình 7 ngôi sao (Thất Tinh Sơn, đây là nơi các nhà khảo cổ xác định di chỉ văn hóa Quỳnh Văn, người Việt cổ sinh sống ở đây khoảng 5.000 năm trước). Phía Đông Bắc có núi Bát Nhã, lại có núi Quy Lĩnh giáp biển hình cái bảng gọi là Bảng Giáp, đối diện với núi Quy Lĩnh là núi Hiên Hoa (phía Tây) gọi là Bảng Canh . Phía Đông Nam có núi đá hình ngọn bút gọi là Hòn Bút. Phía Nam có núi Yên Mã hình yên ngựa… Ông thốt lên: “Thật là một vùng địa linh. Thế đại công hãn phát phát”.
Ông quyết định bỏ công sức khai phá mảnh đất này làm kế lâu dài cho con cháu đời sau. Ông giao cho con cả là Hồ Hồng (đời 14) tiếp tục khai phá trang Thổ Đôi. Cháu đích tôn là Hồ Hân đời 15 từ nguyên tổ Hồ Hưng Dật hay đệ nhất thế (đời 1) của Hồ tông trang Thổ Đôi (hay họ Hồ Quỳnh Đôi sau này) . Hồ Nhân Hy (đời thứ 5 kể từ Hồ Hân) đỗ giám sinh và Tạo Sĩ (Tiến Sĩ võ), làm quan triều Mạc tuớc Bao Vinh hầu, đổi tên Thổ Đôi Trang ra Quỳnh Đôi, xây dựng chùa chiền chợ búa để làng Quỳnh Đôi thành một cái nôi văn hóa không những cho huyện Quỳnh Lưu, cho tỉnh Nghệ An mà cho cả nước Việt Nam nữa.
“Đi ra thiên hạ mà coi,
Không đâu bằng đất Quỳnh Đôi nữa mà.
Trai học hành bút nghiên thi cử
Gái chăm nghề dệt lụa vá may”
Tính từ năm 1944 đời Lê Nhân Tông đến lúc bỏ thi cử chữ Hán, Quỳnh Đôi có trên 1000 người từ đậu tú tài đến Tiến Sĩ:
– Tiến Sĩ 12 người.
– Phó Bảng (và hội thi tam trường): 92
– Cử nhân: 210
– Tú tài: 823
Bà con Quỳnh Đôi có câu ca dao:
“Làng ta khoa bảng thật nhiều
Như cây trên núi như diều trên không”
Theo thống kê 14 họ ở Quỳnh Đôi thì họ Hồ nhiều người thi đậu hơn cả, có đến 560 người, họ Nguyễn: 177, họ Dương: 156, họ Phan: 84, họ Hoàng: 39 và v.v..
“Tôi người họ Hồ Quỳnh Đôi
Thuộc chi đệ nhất con nòi nhà nho”
Trong số 19 người đỗ đại khoa của cả huyện Quỳnh Lưu thì Quỳnh Đôi đã 12. Tại đây có nhiều gia đình: “cha đỗ, con đỗ, cháu đỗ, đỗ cả nhà”. Năm Đinh Mão (1807), toàn tỉnh Nghệ An có 8 người đỗ cử nhân, riêng một làng Quỳnh Đôi 3 người có tên trên bảng. Có lúc 3 khoa liền, làng Quỳnh có 3 người đỗ thủ khoa trường Nghệ. Đó là Dương Quế Phổ đỗ đầu khoa Mậu Dần (1878) Nguyễn Quý Yêm đỗ đầu khoa Nhâm Ngọ (1882) và Phan Đình Phát đỗ đầu khoa Giáp Thân (1884), ca dao có câu:
“Kinh Kỳ dệt gấm thêu hoa,
Quỳnh Đôi khoa bảng thủ khoa ba đời”
Được như vậy chưa chắc là do đất cát, thổ địa, long mạch, phong thủy… mà cụ thể là do tinh thần hiếu học và khổ học của người làng Quỳnh Đôi.
* Trước kia, ở Quỳnh Đôi có nhiều nhà nghèo lắm:
– Chỉ có một cái quần, ngày nào giặt quần, phải nghỉ học ngồi nhà.
– Vừa đi học vừa đi bắt cua hái rau má nấu canh ăn trừ bữa.
– Đi học về, liền léo khố, vác cuốc ra đồng mót khoai.
– Cái cảnh lấy ánh trăng, bắt đom đóm, thắp hương làm đèn, bạn là thầy, sách học nhờ, ở Quỳnh Đôi không thiếu.
– Nhiều nhà “mai khoai, trưa khoai, tối khoai, khoai ba bữa” song “ông đỗ, con đỗ, cháu đỗ, đỗ cả nhà” có khá nhiều ”ông nghè, ông cống, sống bởi ngọn khoai; anh học, anh nho nhai hoài lộc đỗ”
* Gia phả họ Văn (tác giả Ninh Viết Giao mượn đọc nơi cụ Văn Đức Bích) ghi về cụ nghè Văn Đức Giai như sau:
“Năm 16 tuổi, mồ côi cha, lại gặp năm mất mùa đói kém, mẹ góa, con côi, cảnh nhà khốn khổ, phải tìm nơi dạy trẻ kiếm ăn. Mỗi ngày được 2 bát cơm nguội, vài củ khoai, mùa rét được một manh áo cánh và cái quần mỏng. Đói rét đến thế mà cụ vẫn vui tươi, lại càng cố công học tập, văn chương tỏ ra tài giỏi, nghĩa lý nhiều chỗ phát minh”.
Cụ nghè Văn Đức Giai khi làm quan ở Gia Định (1862 – 1866) được Pháp mời đi ăn tiệc, đã nói: “Ta với quân Tây Dương thù không đội trời chung, còn mặt mũi nào mà ngồi một chiếu với chúng”
* Nhưng người được bà con làng Quỳnh nhắc đến nhiều nhất như tấm gương để răn dạy con cháu về tinh thần hiếu học, khổ học là quan Hoàng Giáp Hồ Sĩ Dương, làm quan tới Hộ bộ Thượng thư kiêm Đông các Đại học sĩ, tước Duệ quận công. Ông mồ côi cha từ sớm, mẹ đi bán nước ở chợ Nồi, lấy đình Nồi làm nhà. Hồ Sĩ Dương lúc nhỏ có tên là Hồ Khải Trí. Mỗi phiên chợ, buổi sáng Trí sách ấm nước đi bán rong, buổi chiều Trí lại gánh nước đổ đầy thùng, tối lại nằm co mình trên chiếc võng gon dưới mái đình, nghêu ngao hát:
“Ngày thời việc nước đảm đang
Tối thời võng giá nghênh ngang đình Nồi”
Và
“Bây giờ đi nước mỏi vai
Mai sau đi hán đi hài mỏi chân”
Những lúc có việc đi qua trường cụ đồ làng, Trí thường đứng bên ngoài nghe thầy giảng bài rồi về đình lấy lá đa, lá cáo bắt chước học trò viết chữ nguệch ngoặc. Thấy con thích học, bà mẹ cũng chắt chiu tần tảo cho con đi học. Trí học hành siêng năng mau tấn tới, sau đổi tên là Hồ Sĩ Dương, thi hương đỗ Giải Nguyên, thi Hội thi Đình đỗ Tiến Sĩ cập đệ (Hoàng Giáp) làm quan tột đỉnh vinh quang mà rất hiền lành như Bụt nên được người đời gọi là Hầu Thượng Bụt.
Thuở hàn vi khi còn đi học, một hôm có 3 chiếc cáng đòn cong, cáng 3 cô gái con ông quận công ở Phú Nghĩa đi qua Quỳnh Đôi. Học trò xì xồ dòm ngó, thách nhau ra xin trầu. Trí tự tin xông ra xin trầu. Hai cô đầu liếc xéo khinh bỉ, cô thứ 3 tên là Trương Thị Thành vui vẻ mở tráp lấy miếng trầu tươi tặng Trí. Về nhà Trí đòi mẹ đi hỏi cô Ba cho mình. Mẹ cho là điên khùng phạm thượng nhưng sau Trí khẩn khoản quá, bà thương con mang trầu cau đến nhà ông quận công. Ông quận thấy con gái mình dám tự ý đem trầu cho trai, giận lắm liền đuổi cô Ba ra khỏi cửa để cho “nó đi theo thằng không nhà không cửa ấy”.
Cô Trương Thị Thành dốc lòng thờ mẹ chồng và nuôi chồng ăn học không nề gian khổ như nàng Cúc Hoa trong truyện “Phạm Công Cúc Hoa”.
*Những cô gái, những bà mẹ nuôi chồng con chí tình như vợ và mẹ ông Hồ Sĩ Dương ở Quỳnh Đôi không hiếm. Việc này đã trở thành truyền thống ở Quỳnh Đôi mà nổi tiếng nhất là con gái họ Dương Quỳnh Đôi nên có câu ca dao:
“Dù ai cho bạc cho vàng,
Không bằng con gái họ Dương đến nhà”
* Những hình ảnh của các bà mẹ, bà vợ tần tảo nuôi con, nuôi chồng ăn học đã thành thơ thành vè: “hái lộc đỗ, bắt cáy nuôi chồng ăn học”, dưa chuột, rành rành (1 loại thảo mộc mọc trên đá), nuôi anh ăn học”, hay “lặt gánh phân hôi, chữ anh công tôi, nuôi chồng sớm tối, học nên tài giỏi, rạng nước rạng nhà, rạng cả mẹ cha, rạng người tần tảo”.
* Phần đông các bà các cô kéo vải chăn tằm, kéo kén dệt tơ để nuôi chồng con ăn học nên Quỳnh Đôi nổi tiếng về nghề dệt tơ lụa. Nghề này có tứ đời Lê Hy Tông (1676-1705) do bà Đàm Thị, vợ quận công Hồ Phi Tích đưa về. Hồ Phi Tích người làng Quỳnh Đôi, lúc nhỏ nhà nghèo phải đi gánh thuê để kiếm tiền ăn học. Lúc thi Hội ở Thăng Long, ông chỉ đủ tiền xin ngủ trọ và mua cơm. Nhiều chủ quán không cho trọ. Nhưng có một bà chủ kia không những cho trọ mà còn thết đãi cơm rượu tử tế không lấy tiền. Khoa thi đó, ông đậu Hoàng Giáp. Để trả ơn bà chủ, ông xin cưới con gái bà làm vợ. Người ấy chính là Đàm thị Quỳnh, dân làng thường gọi là Đàm Thị phu nhân, quê ở Hà Đông đã đưa nghề dệt lụa ở Hà Đông về cho làng Quỳnh. Song với bàn tay khéo léo của người phụ nữ Quỳnh Đôi, lụa làng Quỳnh được cải tiến, nhỏ sợi mịn mặt hơn lụa Hà Đông. Lụa Quỳnh Đôi có lụa đơn và lụa đậu. Lụa đậu có các loại: đậu 4 (4 sợi), đậu 6 (6 sợi), đậu 8 (8 sợi). Lụa đẹp là những tấm lụa sợi đều, dày, mịn mặt, không nổi vân, nổi cát. Mỗi phiên chợ Nồi có đến khoảng 300 – 400 người bán lụa. Khoảng 2/3 dân làng sống chính bằng nghề dệt lụa. Nhiều bà nhiều cô dệt lụa đẹp nổi tiếng. Nhờ nghề dệt lụa mà nhiều gia đình phát đạt, có tiền nuôi con ăn học đỗ đạt.
“Ước gì quần nọ, áo này
Lụa Quỳnh cùng sắm, cùng may một nhà
Cùng một tấm lụa xé ra
Anh thì mặc trắng, em thì nhuộm thâm”
Nói đến nghề dệt lụa Quỳnh Đôi ta phải kể đến giai thoại Cô Lụa Trần thị Trâm (1859 – 1930) rồi khi tuổi đã cao người ta gọi là Bà Lụa, Cố Lụa. Cha bà đỗ Cử nhân làm tri phủ mất sớm – mồ côi cha từ nhỏ, bà được mẹ và anh nuôi dạy biết đọc chữ Hán khá thông thạo. Bà lấy Hồ Bá Trị con cụ án Thái, em Hồ Bá Ôn, người làng Quỳnh Đôi. Chồng bà trong trận chống cự với Pháp bị thương nặng rồi qua đời, để lại 2 con nhỏ là Hồ Xuân Kiên và Hồ Xuân Lan (sau đi làm cách mạng đổi tên là Hồ Học Lãm). Nợ nước thù nhà đã thôi thúc bà đi vào con đường hoạt động cứu nước. Bà đã từng hoạt động cho Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám và Phan Bội Châu trong phong trào Đông Du đưa thanh niên vượt biên giới sang Nhật du học. Bà đã đôi lần sang Trung Quốc mua sắm, tiếp vận khí giới cho nghĩa quân. Dân làng Quỳnh Đôi làm nghề dệt lụa và buôn bán tơ lụa nên Trần thị Trâm cũng đi buôn lụa để che mắt mật thám Pháp và để nuôi dạy hai con nhỏ nên được gọi là Cô lụa, Bà Lụa hay Cố Lụa… Bao lần bà bị Pháp bắt bớ giam cầm tra khảo.
Năm 1929, sức đã yếu nhiều bà còn cố gắng lần mò vào Huế thăm cụ Phan Bội Châu. Thoạt gặp, bà nói ngay: “Tôi nghĩ rằng khi ấy giá ông chết ở bên Tàu mà hơn đấy”, bất ngờ trước câu nói thẳng thắn mộc mạc ấy, cụ Phan ngồi lặng đi một lúc mới trả lời được: “Quốc mẫu dạy thế mà đúng”.
Năm sau (1930) bà mất, kết thúc cuộc đời 21 năm liên tục hoạt động cho đất nước không hề biết mỏi mệt. Dân làng Quỳnh Đôi có bài thơ ca ngợi bà:
“Bà lụa chớ ai đâu nào,
Văn thân cách mạng phong trào có tên
Thuở bà con gái thiếu niên
Lấy chồng về xã Quỳnh Yên bây giờ[1]
Chồng bà cùng người họ Hồ[2]
Con cụ án Thái danh gia dõi truyền
Loạn năm Ất Dậu (1885) không yên
Đôi bên giết lẫn can liên đến chồng
Bà sinh con được hai ông
Thứ hai Học Lãm[3] anh hùng biết bao
Xuất dương du học tài cao,
Đem thân cứu nước quản bao công trình
Còn bà nhẹ gót thênh thênh,
Rủ nhau buôn lụa hết kinh đến kỳ
Bà quen chịu bước gian nguy
Đưa người du học đi đi về về
Giao thông tin tức mọi bề
Một người trọng yếu trong nghề bán buôn
Lại còn thao lược vào khuôn
Giúp ông Cao Thắng kinh luân đủ tài
Lấy thành Hà Tĩnh như chơi
Anh chị em tưởng đến người anh thư
Hương hoa kính chúc phụng thờ”
* Con trai thứ hai của bà là Hồ Học Lãm (1884 – 1943) được bà đưa sang Nhật trong phong trào Đông Du và được vào học trường võ bị Trấn Vũ tại Đông Kinh. Khi du học sinh Việt Nam bị chính phủ Nhật trục xuất, cụ Phan Bội Châu đưa ông vào trường quân sự Bảo Định gần Bắc Kinh.
Tốt nghiệp ra trường thì vừa lúc Cách mạng Tân Hợi (1911) ở Trung Quốc bùng nổ. Học Lãm được cụ Phan Bội Châu sắp xếp làm sĩ quan trong quân đội cách mạng của chính phủ dân quốc Tôn Trung Sơn và đã từng làm giảng viên trường võ bị Hoàng Phố. Từ năm 1935, ông đề xướng thành lập tổ chức Việt Nam Độc Lập Đồng Minh, gọi tắt là Việt Minh để liên kết những người Việt Nam đang ở Trung Quốc tại Nam Kinh. Tháng 1,1936 đại hội thành lập mặt trận Việt Minh được cử hành trọng thể dưới sự chủ tọa của Hồ Học Lãm. Mùa thu năm 1937, Nhật tấn công Trung Hoa, Nam Kinh thất thủ, Hồ Học Lãm theo chính phủ Quốc Dân Đảng về Trùng Khánh. Ông đã từng trong bộ tổng tham mưu (và là bạn) của Tưởng Giới Thạch. Ít lâu sau ông bị bệnh tim và viêm gan cổ trướng phải nằm bệnh viện và mất vài năm sau đó, thọ 60 tuổi. Bố ông là Hồ Bá Trị, bác ông là Hồ Bá Ôn, anh con ông bác (Hồ Bá Ôn) là Hồ Bá Kiện, cháu con ông anh họ (Hồ Bá Kiện) là Hồ Tùng Mậu đều chết trận hay chết vì bom đạn của giặc Pháp.
* Trước đây khi phó bảng Hồ Bá Ôn án sát Nam Định trúng đạn bị thương không chịu chữa trị, chết theo thành Nam Định. Vua được tin nói: “Không tránh cái chết mà mất theo thành, Hồ Bá Ôn hơn kẻ tránh cái chết xa lắm”. Và đây là một đoạn trong bài chế của vua Tự Đức:
“… Nghĩ như khanh, Hồ Bá Ôn … giống dòng xứ Nghệ, thế phiệt châu Hoan, vườn Quỳnh thơm ngát … đức độ vang xa.
Khi thành Nam gặp cơn nguy biến, tìm người sắc bén ra tay
Lúc giặc Tây quở trách đưa lời, lập thế binh đao chống chọi …
… phận thư sinh đứng lên dẹp giặc
cùng võ tướng xông xáo liều thân
Múa gươm dóng trống, luôn tay thúc động quân dân
Đạn réo tên bay, giữa trận kinh hoàng rơi ngọc
Thuốc khôn chữa được mệnh, thua vẫn thơm danh !
Người cùng mất với thành, ôm hận mà thác !
Triều đình ban lời khen, sưởi ấm hồn thiêng nơi âm thế
Trong sử xanh nghìn thuở còn ghi, lưu thơm mãi mãi!”.
Vua khen: “Vườn Quỳnh thơm ngát …” Vẻ vang thay cho làng Quỳnh Đôi!
* Tiến sĩ Hồ Sĩ Đống (Hội Nguyên, Đình Nguyên) được cử làm Phó sứ sang nhà Thanh năm 1777. Bấy giờ Trịnh Sâm chuyên quyền làm nhiều điều trái phép. Vốn là người cẩn trọng ngay thẳng, Hồ Sĩ Đống rất bất bình. Trước khi Sứ bộ lên đường, Trịnh Sâm viết một bức mật biểu, giao cho Chánh sứ là Vũ Trần Thiệu để lén tâu lên vua nhà Thanh xin cho mình được làm An Nam phó vương. Biết tính Hồ Sĩ Đống, Trịnh Sâm dấu, không dám cho ông biết. Nào ngờ dọc đường, Vũ Trần Thiệu ốm nặng qua đời bên hồ Động Đình. Trước khi chết, Thiệu trao cho ông tờ mật chiếu, khuyên ông nên hết lòng vì Chúa, sẽ được Chúa biệt đãi. Ông giận bảo: “Đó là điều ám muội, tôi không thể tuân theo”. Thiệu chết rồi, ông đem tờ mật chiếu đốt đi. Lúc trở về, Trịnh Sâm không dám hỏi ông đến tờ mật chiếu ấy nữa.
Năm 1781, ông được cử làm chánh chủ khảo khoa thi Hội. Năm ấy, người em ông là Hồ Sĩ Thích cũng đi thi. Vì nể ông, bài của Hồ Sĩ Thích chưa hay lắm, ban giám khảo vẫn cứ phê “Ưu”. Ông lấy ra đọc lại, vạch ra những chỗ yếu kém rồi phê “Thứ”. Ông nói: “nhà nước đặt ra khoa cử để chọn nhân tài, không thể làm ơn riêng cho ai cả”.
* Cử nhân Hồ Phi Thống còn gọi là Hồ Phi Huyền (1879 – 1946) Á Nguyên khoa Canh Tý (1900) – khoa này Phan Bội Châu đỗ Giải Nguyên.
Hồ Phi Huyền tức Hồ Phi Thống(1879-1946)
Cha là cử nhân Hồ Phi Tự, thuộc dòng dõi Hoàng Giáp Hồ Phi Tích. Thân phụ ông bỏ quan theo Tôn Thất Thuyết (Cần Vương) chống Pháp, chết trong rừng nguyên sinh. Hồ Phi Huyền được mẹ là con gái Tiến Sĩ Văn Đức Giai chăm lo, nuôi nấng dạy dỗ. Thi đỗ, không làm quan, tham gia các phong trào chống thực dân Pháp rồi bị bắt giam. Khi ra tù, ông mở trường dạy học, bốc thuốc, viết sách đồng thời hoạt động xã hội công khai. Báo chí đương thời đã sôi nổi đưa tin về một cuộc đối đầu giữa Hồ Phi Huyền với tri phủ Quỳnh Lưu là Trần Mậu Trinh, khét tiếng đàn áp cách mạng. Hắn bắt giam nhiều người và cho đòi Hồ Phi Thống ra huyện. Ông gọi Mậu Trình bằng chú với thái độ khinh miệt. Mậu Trinh tức giận tát Hồ Phi Thống – ông rút dép đánh lại.
Ông là thầy dạy nhà văn Đặng Thai Mai (sau thành con rể) và đại tướng Võ Nguyên Giáp – ông là một danh nho mà nghiên cứu toán học khoa học, triết học Tây Phương, gồm cả chủ nghĩa Mác Lê. Hai tác phẩm chính là Nhân Đạo Quyền Hành và Đạm Trai thi tập. Ngoài ra còn viết cuốn “Vần quốc ngữ tắt” (mỗi tiếng không quá 3 chữ cái) để dạy con cháu.
Trong thư trả lời con rể Đặng Thai Mai (một lý thuyết gia Mác xít) về triết học phương Tây, ông viết, “Theo sự hiểu biết sơ bộ của tôi về triết học phương Tây thì phép duy vật biện chứng cũng phù hợp với lẽ biến hóa của tự nhiên nhưng chỉ là những lý thuyết hạn hẹp khiên cưỡng, đối với thực tế xã hội chỉ có ý nghĩa cổ súy sự phá hoại còn đối với sự nghiệp kiến thiết và bắt tay vào hành động thì chưa thuyết minh rõ ràng. Hai chữ Duy Vật có quan hệ đối nghịch với Duy Tâm (Âu Tây gọi là Duy Tâm với cái nghĩa là một ảo tưởng của tâm thật khác xa so với cái mà Á Đông gọi là “TÂM”). Đó là chỗ tôi chưa thỏa mãn với triết học Âu Tây”. Và sau đây là lời của nhà văn Đặng Thai Mai viết về nhạc phụ của mình:
”Trong khi giảng kinh truyện, thỉnh thoảng thầy cho biết những chỗ thầy không đồng ý với các bậc tiên nho bên Tàu kể cả thầy Mạnh. Thầy vẫn thường nói: Chỉ có Khổng Tử nói không quá lời, Mạnh Tử thì lắm lúc nói quá, Lão Tử là một nhà hư vô, Trang Tử chỉ là một nhà văn còn các hậu nho đời Hán, đời Tống thì chẳng có gì mới mẻ, sâu sắc cả. Tất cả các nước Á, Âu khác: Thích Ca cũng như Gia Tô, Socrate cũng như Platon, Democrates cũng như Khang Đức đều chỉ là những bậc hiền triết. Thế giới chỉ có một ông Thánh, cổ kim Đông Tây cũng chỉ có một ông Thánh là Khổng Tử.
Thầy tập cho chúng tôi kể lại các công trình hay bình phẩm việc làm của các nhân vật lịch sử Việt Nam và thường kể cho nghe những chuyện lịch sử thế giới, Trung Hoa, Nhật Bản. Thầy ham mê theo dõi những chuyển biến chính trị và tư tưởng thế giới. Thầy tán thành tư tưởng quốc tế chủ nghĩa nhưng nhiều vấn đề xã hội kinh tế thì thầy vẫn nghĩ rằng đó còn là không tưởng.
Ngoài những giờ chính khóa, thầy sắp xếp cho học sinh những giờ tiêu khiển: đánh cờ (thầy rất cao cờ), chơi đàn (thầy thích chơi đàn nguyệt), tập bơi, tập lặn.
Thầy dạy chúng tôi biết cách học, biết đọc sách, biết viết văn và biết suy nghĩ. Tôi thực lòng coi Thầy như người Cha thứ hai của mình”
Khoảng giữa năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ủy cho ông Vũ Đình Huỳnh đi mời đón ông Hồ Phi Huyền (được Chủ tịch mô tả như một nhà túc nho thông: thiên, địa, nhân). Lần trước được mời nhưng ông cáo ốm không tới. Lần này Chủ tịch tiếp đón ân cần và mời ông ra giúp nước. Ông từ chối và căn dặn “Xin Chủ tịch lưu tâm thời mệnh trong thế cục này, chúng ta sẽ phải trải qua: Thiên đô bảo chủ quốc tồn độn thổ trường kỳ kháng địch”. Sau đó ông Hồ Phi Huyền trở về quê và cuộc kháng chiến bùng nổ ngày 19.12.46. Lời tiên tri phải bỏ thủ đô và trường kỳ kháng chiến quả nhiên đúng. Ông là một bậc cao phi trạch cát thái huyền vi.
Sau khi đọc sách “Nhân Đạo Quyền Hành”, Nam Tuyền Trần Huy Hiến viết cảm tưởng trên tạp chí Nam Phong (1936): “Đó là một cuốn sách nghiên cứu đạo lý có hệ thống, có mực thước, phát minh được nhiều điều … một quyển trong các sách triết học của thế giới”.
Giáo sư Cao Xuân Huy nói “Hồ Phi Huyền là một nhà triết học đặc sắc của nước ta. Nước ta có nhiều nhà triết học nhưng chỉ có 2 người có tư duy độc lập là Nguyễn Bỉnh Khiêm và Hồ Phi Huyền”.
Nhân cơ hội về Hà Nội dự đại lễ “Ngàn năm Thăng Long” (đầu tháng 10 năm 2010) tôi dành riêng vài ngày về thăm làng Quỳnh Đôi và vùng Nghệ Tĩnh cho thỏa lòng mong ước. Đi đường quốc lộ 1A vào Nghệ An, cách Hà Nội hơn 200 km là huyện Quỳnh Lưu (huyện giáp đầu tỉnh Nghệ An). Cách Thanh Hóa 80 km là Cầu Giát, phía đông Cầu Giát 6 km hay cách quốc lộ 3 km là làng Quỳnh Đôi có bảng chỉ dẫn to tướng đề: Làng Văn Hóa Quỳnh Đôi – Bia Mộ Nữ Sĩ Hồ Xuân Hương.
Bên tay trái đường đi vào làng có 4 ngôi mộ song song cạnh nhau theo thứ tự trước sau, tôi đến thăm:
-Mộ và nhà thờ Hoàng Giáp Hồ Sĩ Dương (1621 – 1681): Ông cúng cho làng Quỳnh Đôi 20 mẫu ruộng trợ cấp cho học trò nghèo học giỏi gọi là học điền để khuyến khích việc học cho con em trong làng (Hoàng Giáp Hồ Phi Tích cũng cúng cho làng 10 mẫu làm học điền) và 20 mẫu cho những gia đình có người đi lính gọi là binh điền. Phu nhân của ông là bà Trương Thị Thành (con gái Trương quận công) mở xưởng mộc đóng quan tài cấp cho người quá nghèo khi quá cố.
– Mộ nữ sĩ Hồ Xuân Hương (1772 – 1822): Bà là một trong ba đại thi hào dân tộc cùng với Nguyễn Trãi, Nguyễn Du và là một trong ba nhà thơ Nôm Đường luật trào phúng xuất sắc nhất cùng với Nguyễn Khuyến và Tú Xương.
– Mộ nhà cách mạng Hồ Tùng Mậu (1896 – 1951): Ông là con trai đầu của Hồ Bá Kiện, cháu đích tôn của Hồ Bá Ôn. Cả 3 ông cháu cha con đều hy sinh vì nước.
Cái chết của Hồ Bá Ôn với thành Nam Định đã đem lại cho làng Quỳnh Đôi cái vinh dự được vua Tự Đức phê: “Làng Quỳnh thơm ngát …” ông cùng với Lê Hồng Sơn, Lê Hồng Phong, Phùng Chí Kiên … là một trong 5 người trung kiên nhất của đồng chí Vương (Vương Đạt Nhân là một tên khác của Nguyễn Ái Quốc). Ông Trần Trọng Kim khi lập nội các hồi tháng 3 năm 1945 có ý mời nhà cách mạng lão thành Hồ Tùng Mậu làm cố vấn cho chính phủ. Sau này ông làm chủ tịch ủy ban kháng chiến hành chính liên khu IV. Khi nghe tin Hồ Tùng Mậu đã hy sinh vì bị máy bay Pháp bắn tại cầu Còng (Thanh Hóa). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài điếu văn thương tiếc vô hạn:
“Mất chú, đồng bào mất đi một người lãnh đạo tận tụy … và tôi mất đi một người anh em chí thiết (trong phả họ Hồ Quỳnh Đôi, hai người là anh em bằng vai nhau cùng thuộc đời thứ 15 sau Hồ Hân). Mấy nguồn thương tiếc cộng lại một lòng tôi … Tôi gạt nước mắt thay mặt chính phủ, nghiêng mình trước linh hồn chú …”.
– Mộ liệt sĩ Cù Chính Lan (1930 – 1951), người làng Quỳnh Đôi, tình nguyện đi bộ đội kháng chiến đầu năm 1946, được giao nhiệm vụ tiểu đội trưởng.
Tiêu biểu là trận Giang Mỗ trong tháng 12 năm 1951: anh nhảy lên xe tăng, kê tiểu liên vào khe hở trên tháp pháo, bóp cò. Bắn được vài loạt thì hết đạn, anh hô anh em dồn lựu đạn cho mình rồi nhảy lại lên thành xe tăng, giật nắp quẳng lựu đạn vào trong. Địch nhặt lựu đạn ném ra. Cù Chính Lan lần này táo bạo mở chốt cho xì khói vài giây rồi mới ném vào phòng lái. Lựu đạn nổ chiếc xe tăng bốc cháy. Sau nhiều trận đánh dữ dội, anh hy sinh vào cuối tháng 12, 1951.
Cù Chính Lan nổi tiếng là “anh hùng đánh xe tăng” bên cạnh Phan Đình Giót “lấy thân lấp lỗ châu mai”, Bế Văn Đàn “lấy thân làm giá súng” và Tô Vĩnh Diện “lấy thân chèn pháo” trong trận chiến Điện Biên Phủ.
Rời khu mộ địa, trên đường đi đến đình làng Quỳnh Đôi, tôi chợt nghĩ sao cái bảng chỉ đường đến làng Quỳnh Đôi là nơi phát tích đế vương, công hầu, khoa bảng, anh hùng liệt sĩ mà chỉ nêu tên Hồ Xuân Hương.
Thế mới biết “Bao đấng anh hùng cũng không lấp đầy đáy mắt giai nhân”. Còn nói bậy một chút thì “Bao bảng vàng bia đá cũng không to hơn chiếc lá đa”.
– Đình làng Quỳnh Đôi: cất trên lưng mảnh đất mang hình con cá gáy, bốn phía có dòng nước chảy. Dưới con mắt thày địa lý, đây là nơi hội tụ khí thiêng sông núi, nơi địa linh nhân kiệt. Không biết làng dựng đình từ năm nào, sau nhiều lần đổ nát và sửa chữa, cái đình hiện nay là do Cử nhân Phạm Đình Toái (người cải biên cuốn Đại Nam quốc sử diễn ca của Lê Ngô Cát) làm quan ở triều đình Huế bỏ tiền ra xây dựng lại từ cuối năm 1860 đến đầu năm 1861 thì xong. Đình gồm 5 gian, 2 hồi, cột to vừa vòng tay người ôm. Đình làng lần này cất cao hơn điện Thái Hòa tại kinh đô Huế. Sự việc bị phát giác, triều đình bắt phải hạ cột đình nên năm 1866 các cột đều phải cưa thấp đi 1 thước ta tức 0.40 mét. Từ bấy đến nay đình vẫn tồn tại cùng năm tháng. Đình làng Quỳnh Đôi là nơi hội họp, cúng lễ, yến ẩm, nơi đặt những lớp học đầu tiên và là nơi đặt hương ước để xây dựng cộng đồng thành một làng văn hiến có truyền thống. Năm 1978, đình làng chuyển thành nhà truyền thống của xã nhân kỷ niệm 600 năm thành lập làng (Quỳnh Đôi trở thành một đơn vị hành chính từ năm 1378 với tên Thổ Đôi Trang, đến năm 1528 mới gọi là làng Quỳnh Đôi). Năm 1991, đình làng Quỳnh Đôi được nhà nước công nhận là một di tích lịch sử văn hóa.
– Hương ước làng Quỳnh Đôi: từ xưa lệ làng vẫn được coi trọng hơn luật nước “phép vua thua lệ làng”. Đối với người dân “vua quan thì xa, lý hương thì gần” nên có việc gì phải trình làng xét xử trước đã. Có làng hương ước rất ngắn chỉ có 5 điều như làng Phú Thanh, có làng hương ước rất dài có tới 118 điều như làng Quỳnh (hương ước làng Quỳnh Đôi lập từ năm 1638 đời Lê Thần Tông). Điều 74 trong khoán ước làng Quỳnh Đôi quy định: “Trong làng cốt lấy sự không kiện nhau làm quý, phỏng ai có sự gì uất ức thì phải trình làng để làng xét xử trước đã, không được bình tình thì mới đưa nhau đến quan xử. Quan xử y như làng xử thì làng phạt lợn, một con giá 3 quan. Nếu không trình làng xử trước mà đi kiện ở quan, làng cũng phạt như vậy”. Làng xử theo “lệ làng”, quan xử theo “phép vua, luật nước”. Lệ làng cụ thể hóa một số điều cơ bản của luật nước nhưng không hẳn luôn luôn như vậy. Nhưng tựu trung luật nước, lệ làng cũng phải uyển chuyển với nhau ở chỗ hòa đồng và ở chỗ không hòa đồng. Hương ước không chỉ có ý nghĩa như một thứ luật pháp mà còn như một hệ thống tiêu chuẩn đạo đức phản ánh nếp sống và tâm lý tâm hồn của dân làng để bảo tồn tính truyền thống của dân làng, dân tộc. Nếu chẳng may đất nước có tan hoang như ngôi nhà bị đổ vỡ thì làng xóm như những viên gạch còn nguyên vẹn để mai kia có phen dựng lại cơ đồ. Tinh thần dân chủ, dân vi quý đã có tự ngàn xưa; 1000 năm đô hộ giặc Tàu, 100 năm đô hộ giặc Tây hay còn bị giặc gì đô hộ đi chăng nữa (hãy nhìn vào những gì đương xảy ra) thì tinh thần Việt Nam cùng đất nước Việt Nam vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt!
– Nhà thờ họ (tổ tiên, ông bà, cha mẹ) làng Quỳnh Đôi:
Làm người phải biết ơn nghĩa sinh thành, công nuôi dưỡng của cha mẹ.
Đã có hiếu với cha mẹ thì phải có hiếu với ông bà, tiên tổ.
Không thờ phụng cha mẹ ông bà tổ tiên mà lại đi thờ cúng một quái nhân bên Tàu, một kỳ nhân bên Tây, bên Ấn Độ, bên Ả rập, bên Do Thái thì thử hỏi có phải là người có TÂM có TRÍ không !
Tại làng Quỳnh Đôi (cũng như mọi làng xóm Việt Nam) ngoài chùa (thờ Phật), đình (thờ Thành Hoàng), đền (thờ Thần), mỗi nhà đều có bàn thờ ông bà cha mẹ, mỗi dòng họ đều có nhà thờ họ thờ Tiên Tổ như những cứ điểm âm vang trong tâm linh nhắc nhở con cháu một quá khứ vàng son của Tổ Tiên.
Từ xa xa… trên cánh đồng ruộng xanh tươi hiện ra ba ngôi nhà thờ họ nằm cạnh nhau có cùng một diện tích, có cùng một kiểu kiến trúc truyền thống cổ Việt Nam. Đó là nhà thờ họ Nguyễn, nhà thờ họ Hoàng và nhà thờ họ Hồ.
Ba vị thủy tổ của 3 họ này cùng đến Thổ Đôi Trang khoảng thời gian năm 1378 chiêu mộ dân, lập ấp trại để xây dựng nên làng Quỳnh Đôi ngày nay.
Nhà thờ họ Hoàng Quỳnh Đôi
Họ nào cũng có người đỗ đại khoa làm quan đến tước công tước hầu, nhưng họ Hồ có nhiều danh nhân nhất.
Nhà thờ họ Hồ nằm giữa nhà thờ họ Nguyễn và nhà thờ họ Hoàng.
Đứng ngoài nhìn vào thấy tượng Hồ Xuân Hương (1772 – 1822) bên trái ngoài Nghi Môn.
Nhà thờ họ Hồ Quỳnh Đôi
Tượng nữ sĩ mặc áo dài, quần dài, tay cầm quạt, ngồi bắt chân chữ ngũ. Tay cầm quạt thì chuẩn lắm rồi vì bà có bài thơ vịnh cái quạt. Mặc quần thì không đúng lắm. Bà thường mặc váy vì tuy quê nội gốc Quỳnh Đôi con gái ông Hồ Phi Diễn nhưng sinh sống ở quanh vùng Tây Hồ, Hà Nội. Tục truyền các tài tử văn nhân đến chơi nhà bà thấy bà mặc váy dài chấm đất, đùa bảo nhau làm THƠ VÁY. Hồi lâu không ai làm được, bà đọc ngay:
“Chẳng phải xiêm ban chẳng phải quần
Thướt thướt giong vừa đến gót chân
Tưởng lúc động phòng hoa chúc dạ
Vén lên cho rõ thấy tinh thần”
Học giả Hoàng Xuân Hãn kê ra một danh sách những người tình của bà cùng thời gian dan díu và chức nghiệp trong đó có đại thi hào Nguyễn Du đứng đầu bảng:
Nguyễn Du (1765 – 1820) vào khoảng 1780 – 1783 sinh đồ
Mai Sơn Phú 1799 – 1801
Tốn Phong (Phan Huân ?) 1807 – 1808
Trần Quang Tỉnh 1808 – 1809 hiệp trấn
Trần Phúc Hiển 1813… tham hiệp
Tốn Phong trở lại 1814
Trần Ngọc Quán 1815 – 1816 hiệp trấn
Trần Phúc Hiển cưới XH làm vợ bé 1816 tham hiệp
bị tù 1818 (tháng 5 ta)
bị xử tử 1819 (tháng 5 ta)
Xuân Hương mất vào khoảng năm 1821–1822 thọ 50/51 tuổi.
Trong số các tài tử danh nhân say đắm nữ sĩ Xuân Hương, đại thi hào Nguyễn Du cũng đã vướng vào mạng lưới hấp trường của nàng.
Trong tập thơ Nguyễn Du làm sau khi dời Bắc Hà có bài “Mộng thấy hoa sen” nhắc nhở đến hồi dan díu với Xuân Hương. Sau đây là bản dịch của Lê Thước:
“Sáng nay đi hái sen
Hẹn cô kia đi với
Chẳng biết đến lúc nào
Cách hoa nghe cười nói
Hoa sen ai cũng ưa
Cuống sen chẳng ai thích
Trong cuống có tơ mành
Vấn vương không thể dứt
Lá sen màu xanh xanh
Hoa sen dáng xinh xinh
Hái sen chớ đụng ngó
Năm sau hoa chẳng sinh”.
Theo học giả Hoàng Xuân Hãn cuộc tình duyên giữa Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương là có thật. Nó kéo dài “ba năm vẹn” theo lời Xuân Hương mà nàng còn than là ngắn và không tiếng dội.
Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền cho biết rõ ràng mùa đông năm trước Nguyễn Du được triệu từ Quảng Bình về Huế, tháng 2 năm sau được thăng Cần chánh Điện học sĩ rồi được chọn làm chánh sứ đi tuế cống triều Thanh. Tin này đồn ra đến Thăng Long đã nhắc Xuân Hương nhớ đến Nguyễn Du đã từng dan díu với mình trong 3 năm rồi vào kinh tuyệt không tin tức. Nay chàng được vinh dự đi sứ (mà mình số phận còn long đong) không biết trên đường đi sứ qua Thăng Long còn nhớ tới tình xưa ghé thăm nàng không còn nàng vẫn chờ mong gặp chàng “lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong”.
Trong Lưu Hương ký, Xuân Hương còn chép lại bài thơ này với cái đề: “Cảm tình cũ trình quan Cần chánh Học sĩ họ Nguyễn” với cước chú: [quan là người Tiên Điền, huyện Nghi Xuân]:
Cảm cựu kiêm trình Cần chánh Học sĩ Nguyễn hầu
(hầu, Nghi Xuân, Tiên Điền nhân)
Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung
Mượn ai tới đấy gửi cho cùng
Chữ tình chốc đã 3 năm vẹn
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không
Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập
Phấn son càng tủi phận long đong
Biết còn mảng chút sương siu (bịn rịn) mấy (với)
Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong.
…
Bước qua Nghi Môn (cổng nhà thờ họ Hồ) hiện ra trước mặt tôi bên phải là tượng Hồ Quý Ly, bên trái là tượng Hồ Thơm (tức Quang Trung Nguyễn Huệ).
Hồ Quý Ly (1336-1407) có 2 người cô đều được vua Trần Minh Tông tuyển vào cung. Một bà là Minh Từ Hoàng Phi sinh ra vua Trần Nghệ Tông. Một bà là Đôn Từ Hoàng Phi sinh ra vua Trần Duệ Tông. Vì có tài năng và họ ngoại thân tín (ngoại thích) Quý Ly được vua Nghệ Tông gả con gái là công chúa Huy Ninh và cử làm Tể tướng triều đình. Con gái trưởng của Quý Ly với công chúa Huy Ninh là Thánh Ngẫu lấy vua Trần Thuận Tông đẻ ra vua Trần Thiếu Đế.
Năm 1400, Quý Ly ép vua Thiếu Đế (tức cháu ngoại của mình) nhường ngôi cho mình lập ra triều Hồ, đổi tên nước là Đại Ngu (có ý mong đất nước được thanh bình thịnh trị như đời vua Ngu Thuấn, tổ tiên của mình).
Con trưởng là Hồ Nguyên Trường, con thứ (với công chúa Huy Ninh) là Hồ Hán Thương.
Năm 1401, Hồ Quý Ly nhường ngôi cho con trai thứ là Hồ Hán Thương để làm Thái Thượng Hoàng Trải qua 30 năm tham chính dưới triều Trần, 7 năm xưng Hoàng Đế và Thái Thượng Hoàng, Hồ Quý Ly đã đưa ra những cải cách trên các mặt quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa:
– Cải cách bộ máy cai trị để loại trừ tình trạng địa phương cát cứ, quyền lực không tập trung.
– Ra sách Minh Đạo, đánh vào hệ thống tư tưởng Tống Nho (muốn phục hồi lại tư tưởng Nho giáo [Chân Nho] lúc đầu) để chuẩn bị cho hàng loạt cải cách. Dịch thiên Vô Dật trong sách Thượng Thư ra nôm để dạy vua Trần Thuận Tông (là con rể). Dịch Kinh Thi bằng hình thức thi nghĩa.
– Hạn điền, hạn nô, sa thải tăng lữ (tăng nhân chưa đầy 50 tuổi đều phải hoàn tục, trong tuổi quy định phải chịu binh dịch). Ai muốn xuất gia đi tu phải qua kỳ thi để hạn chế thế lực của quý tộc và nhà chùa, đồng thời tăng thêm lực lượng lao động xã hội, lao động sản xuất.
– Đo đạc lại ruộng đất và điều tra dân số để nắm vững được tài sản và sức lao động xã hội. Phát hành tiền giấy để giải quyết các khó khăn tài chính quốc gia và thuận tiện cho việc mua bán, một việc chưa từng có. Hết sức chú ý đến việc giao thông thủy lợi, vét sông, đào kênh nối các sông và thông ra biển, đắp đường thiên lý, đặt phố xá, đặt trạm chuyển công văn. Đặt ra hình luật để củng cố trật tự xã hội và tăng cường bộ máy quyền lực nhà nước.
– Mở mang việc giáo dục, cải cách chế độ thi cử, lập quảng-tế-thự để chữa bệnh cho nhân dân là một việc rất mới mẻ và tiến bộ trong thời bấy giờ. Đào tạo những danh nho như Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Vũ Mộng Nguyên và các nhân tài như Nguyễn An (sau này làm công-trình-sư xây dựng Thiên An Môn cho Trung Quốc), Hồ Nguyên Trừng có tài chế súng “thần cơ” được vua Minh bên Tàu cho làm Công bộ Lang trung rồi thăng lên Binh bộ Tả thị lang. Xử dụng một số nho sĩ triều Trần như Nguyễn Phi Khanh (cha Nguyễn Trãi).
– Về quân sự, tăng cường quân đội thường trực, xây dựng các tuyến phòng thủ, cải tiến binh khí, kỹ thuật … Hồ Quý Ly luôn mơ ước có 100 vạn quân để chống giặc Tàu phương Bắc (cũng như Quang Trung Nguyễn Huệ, Quý Ly hiểu rõ sức mạnh của thiên triều Trung Quốc).
Bên cạnh những tư duy cách mạng đả phá Tống Nho, những cải cách tiến bộ vượt thời gian, Hồ Quý Ly đã phạm vào một số sai lầm nghiêm trọng dẫn đến cảnh nước mất (vào tay quân Minh) nhà tan (cha con ông cháu bị đày ải, bỏ xác xứ người):
* Quý Ly ác quá ! Tuy việc Quý Ly diệt nhà Trần cũng như Thủ Độ diệt nhà Lý lúc trước nhưng Quý Ly giết nhiều quá, giết cả nhiều người trong gia đình.
Sử gia Trần Trọng Kim viết:
– Nghệ Tông Thượng hoàng đã nghe lời Quý Ly mà giết Đế Hiển (Trần Phế Đế) rồi lập người con út của mình lên làm vua tức là vua Thuận Tông (con rể Hồ Quý Ly) năm 1388.
– Đến năm Bính Tý (1396) Quý Ly bắt Thuận Tông phải dời kinh về Tây Đô (thành nhà Hồ). Qua tháng 3 năm sau, Quý Ly lập mưu cho người đạo sĩ vào cung xui Thuận Tông nhường ngôi cho con mới 3 tuổi (tức Thiếu Đế, cháu ngoại Quý Ly) mà đi tu tiên … Quý Ly làm phụ chính rồi sai người giết Thuận Tông (giết con rể, chồng của Thánh Ngẫu, con gái lớn của Quý Ly).
– Bấy giờ triều đình có những người như Thái bảo Trần Nguyên Hàng, Thượng tướng quân Trần Khát Chân lập hội để mưu trừ Quý Ly, chẳng may sự việc lộ ra, bị giết đến hơn 370 người (đó là cuộc thảm sát Hội Thề Đốn Sơn,1399).
– Đến năm Canh Thìn (1400) Quý Ly bỏ Thiếu Đế (cháu ngoại minh) rồi tự xưng làm vua thay ngôi nhà Trần.
Cuối cùng Quý Ly giết con gái mình là Thái Dương công chúa chỉ vì nàng tìm kế can ngăn cha hành hạ dân phu trong việc đào kênh xây thành. Dân Nghệ An đã ghi lại việc thất đức này bằng mấy câu vè:
“Sao mà có Trần Quốc Công (Hồ Quý Ly là quốc công nhà Trần)
Giết nàng thục nữ oan lòng sự con …
Thương nàng lắm lắm nàng ơi !
Bởi vì kênh sắt đào rồi không xong
Giết con mà lấy uy lòng,
Oan con, con chịu mà sông không thành”
* Quý Ly lo xây thành lũy để chống giặc (một sai lầm về chiến thuật quân sự lại gây nhiều thống khổ cho nhân dân).Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Huệ không đặt nặng việc xây thành đắp lũy. Nhưng khi giặc đến, thành lũy trở thành vô dụng vì binh tướng không hết lòng chống giữ. Hai cha con Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương chạy trốn đến núi Thiên Cầm, huyện Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh thì Quý Ly bị bắt. Hán Thương chạy vào đến núi Cao Vọng, huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh, cũng bị quân Minh bắt nốt, trói bỏ lên thuyền đem về Tàu. Hồ Quý Ly đã xây nhiều thành lũy bằng đá, nhưng không xây được bức thành nào trong lòng người.
* Bỏ trưởng lập thứ, không truyền ngôi cho Hồ Nguyên Trừng cũng lại là một sai lầm lớn. Khi được hỏi về kế sách chống quân Minh, Hồ Nguyên Trừng thẳng thắn trả lời: “Tâu bệ hạ, thần không ngại đánh, chỉ sợ lòng dân có theo hay không thôi”. Sử gia Ngô Sĩ Liên đã khẳng định quan điểm “dân vi bang bản” (dân là gốc của đất nước) của Hồ Nguyên Trừng và còn bàn thêm rằng: “Mệnh trời ở lòng dân, lời nói của Trừng đúng chỗ chủ yếu, không nên lấy cớ họ Hồ mà bỏ câu nói của Trừng”.
Để chuẩn bị chống lại âm mưu xâm lăng của nhà Minh, Hồ Nguyên Trừng đã nghiên cứu chế tạo nhiều loại súng có sức công phá mạnh gọi là súng “thần cơ”, có đầy đủ các bộ phận cơ bản của súng thần công ở nhiều thế kỷ sau này. Khi bị bắt mang về Tàu, Hồ Nguyên Trừng được vua Minh trọng dụng, cất nhắc lên tới chức Binh bộ Thị lang (tương đương với Thứ bộ trưởng quốc phòng bây giờ). Vân Đài loại ngữ của Lê Quý Đôn có nhắc đến tình tiết khi ra trận, quân Minh làm lễ tế súng ”thần công” đều phải tế Hồ Nguyên Trừng trước.
(Khi cha con ông cháu Hồ Quý Ly bị bắt đem sang Tàu, ngoài Hồ Nguyên Trừng còn con trai Hồ Hán Thương là Hồ Nhuế cũng được tha mạng và được cử làm trưởng ty thuế tỉnh Quảng Tây. Cháu 10 đời của Hồ Hán Thương là Hồ Minh Đạo đậu Tiến sĩ Trung Hoa, 7 đời sau là Hồ Hán Dân đậu cử nhân, làm phủ đạo nguyên soái hồi cách mạng Tân Hợi (1911) và là ủy viên trong chánh phủ Trung Hoa Dân Quốc (1928). Khoảng năm 1920 khi Hồ Hán Dân làm tỉnh trưởng Quảng Đông, đã nhận là con cháu Hồ Hán Thương với cụ Hồ Học Lãm. Ông Dân đã từng giúp đỡ các nhà cách mạng Việt Nam tại Trung Quốc và chủ trương đem thi hài liệt sĩ Phạm Hồng Thái vào nghĩa trang Hoàng Hoa Cương tại Quảng Châu).
Những cải cách của Hồ Quý Ly phải bỏ dở vì lòng dân oán giận và nạn ngoại xâm, nhưng đã mở đường cho các bước phát triển sau này trong đời Lê Sơ. Người sau (Lê Thánh Tông) đã trân trọng việc làm của ông.
Không phải ngẫu nhiên mà tên tuổi của Hồ Quý Ly được ghi vào từ điển bách khoa nước ngoài như một nhà cải cách lớn của Việt Nam. Tiến sĩ sử học Nga G.M. Maxlor đã viết: “Trước chúng ta, Hồ Quý Ly đã thể hiện như một nhà cải cách lớn, ông xứng đáng có một vị trí đặc biệt trong lịch sử dân tộc Việt Nam”, Huỳnh Thúc Kháng viết: “Cái án Tống Nho mà Hồ Quý Ly nêu ra là cái thiết án rất xác đáng” Vua Tự Đức phê: “Vị vi toàn phi” (chưa chắc đã là hoàn toàn sai) ý nói Hồ Quý Ly có nhiều chỗ đúng.
Tuy trong Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi phê phán sai lầm của Hồ Quý Ly “nay họ Hồ chính sự phiền hà để trong nước lòng dân oán giận” không có nghĩa là phủ nhận toàn bộ sự nghiệp của Hồ Quý Ly. Trong bài thơ Quan Hải, Nguyễn Trãi than tiếc cho Hồ Quý Ly:”Anh hùng di hận kỷ thiên niên” (người anh hùng để hận ngàn thu).
Đối diện với tượng Hồ Quý Ly là tượng Hồ Thơm tức Đại đế Quang Trung Nguyễn Huệ (1752-1792).
Tôi nhìn quanh quất đề tìm thêm tượng của một vĩ nhân họ Hồ nữa mà ông UBND xã vừa khoe với tôi là BÁC cũng gốc làng Quỳnh Đôi nhưng không thấy nên hỏi lại thì ông xã che miệng nói khẽ với tôi nên tôi cũng chỉ dám viết khẽ là hiện nay Người đã nằm trong lăng to rộng gấp trăm lần chỗ này, vinh hiển gấp 100 lần mấy vị này nhưng hiện nay chưa công bố được (hình như HCM là tên hiệu của cụ Hồ Học Lãm.Người dùng cái tên đã có sẵn uy tín của cụ Hồ Học Lãm để dễ bề hoạt động cách mạng bên Trung Quốc). Tôi đi tới gần và ngắm nhìn bức tượng người Anh Hùng Dân Tộc, vận võ phục, đầu quấn khăn, tay nắm đốc kiếm – cũng tương đối tạm được, còn Việt Nam hơn bức chân dung triều đình nhà Thanh vẽ Quang Trung giả (Phạm Công Trị) và đỡ Tàu hơn tượng Lý Công Uẩn ở vườn hoa Lý Thái Tổ Hà Nội. Tượng vua Quang Trung ở gò Đống Đa, ở Bình Khê cũng chưa đạt.
Tượng chân dung phải làm sao như tượng Napoléon (đứng nhét tay trái vào cạp quần) hay tượng Beethoven (mắt nhắm, đầu hơi cúi như cố lắng nghe vì điếc) để nhìn một cái là biết là ai rồi, không lẫn với người khác được. Tôi có gợi ý nhiều lần cho các nhà điêu khắc nên làm bức tượng ”vua Quang Trung trên mình voi cao luôn thúc ba quân, áo chiến bào đỏ đã nhuộm màu thuốc súng” thì mới rõ nét người Anh Hùng Dân Tộc, một thiên tài quân sự đã đánh tan 20 ngàn quân Xiêm, 20 vạn quân Thanh, chưa hề thua một trận, bách chiến bách thắng. Chùa Bộc, một ngôi chùa nhỏ bé trước gò Đống Đa Hà Nội có một bức tượng vua Quang Trung ngồi trên ngai mà tháo 1 chiếc ủng ra, kéo chân trái lên, đàng sau có chữ Tâm to tướng. Thật là vừa dân dã bình dị vừa oai phong ngạo nghễ đúng phong cách của con Rồng cháu Tiên (thời bình hiền hòa như Tiên, thời loạn oai phong như Rồng), lại biểu hiện một tấm lòng thương dân và quyết liệt với ngoại xâm (chứ không đàn áp nhân dân trong nước và chết nhát với giặc Bắc phương).
”… CÔNG dường ấy mà NHÂN dường ấy…”
(Ngọc Hân công chúa, Ai Tư Vãn)
Nghe tin 20 vạn quân Thanh kéo đến Thăng Long, Nguyễn Huệ tự tín truyền hịch xuất quân với lời dự báo chính xác: “Lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã tính sẵn. Chẳng qua 10 ngày có thể đuổi được quân Thanh”.
Cũng năm 1789 Quang Trung đại phá quân Thanh, bên Pháp cách mạng thành công, nhưng nay hoàng đế Napoléon được vinh hiển nằm trong điện “Les Invalides”. Còn hoàng đế Quang Trung, xương giam trong cũi, con cháu bị chu di tam tộc, voi dày ngựa xé.
Cũng như Trần Nhân Tông, Nguyễn Huệ hiểu rằng Tàu không bao giờ chịu bỏ tham vọng thôn tính nước ta và ông ước mong “Chờ 10 năm nữa, cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng, bấy giờ dân giàu nước mạnh thì ta có sợ gì chúng” (Hoàng Lê Nhất Thống Chí). Than ôi :
“…Cõi thọ sao hẹp bấy Hóa Công…”
Người chỉ được có 3 năm mà cố công chấn chỉnh việc nội trị: phát thẻ tín bài để kiểm soát dân số và tiện việc tuyển lính sửa soạn việc Bắc phạt (một nhà truyền giáo Tây Phương chép lại rằng người Nam theo Tây Sơn đi trận, trở nên gan dạ, hùng kiện, một người đương nổi 10 người, đánh đâu thắng đấy), làm lại sổ điền, phân lại ruộng đất để khuyến khích canh nông, chăm giúp nhân dân sinh tụ đông đảo (sau cơn binh lửa, đồng ruộng bỏ hoang, nhân dân phiêu giạt), rút bớt xâu thuế, bãi bỏ phép đánh thuế “điệu tiền” của nhà Lê, sửa sang việc học việc thi cử (lập nhà xã học để dạy học trò trong xã, dùng chung các đền từ làm trường học, hạng sinh đồ mua bằng 3 quan tiền trong triều Lê bị đuổi về làm dân, dùng chữ nôm bên cạnh chữ nho), trọng dụng nhân tài (Ngô Thời Nhiệm, Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn) còn người nào thích ở ẩn cũng không ép buộc như Trương Quán và Nguyễn Thiếp. Trương Quán là công thần nhà Lê không chịu theo Tây Sơn, Quang Trung cũng để cho Quán được tự do không phiền hà. Đối với Nguyễn Thiếp cũng vậy, mời mãi không chịu ra, cho gì cũng trả lại, Quang Trung không hề tức giận vẫn một niềm tôn kính như bậc Thầy. Mãi về sau Nguyễn Thiếp mới ra giúp Quang Trung lập Sùng Chính viện như là bộ tham mưu và xây dựng Phượng Hoàng trung đô cho nhà Tây Sơn.
Quang Trung có tài biết rõ người và độ lượng với mọi người nên các thân thần cúc cung tận tụy để đền ơn tri ngộ.
Đối với các tông giáo, Quang Trung tôn trọng tất cả: đạo Nho, đạo Phật, đạo Bách Thần và đặc biệt dưới triều đại Tây Sơn, đạo Gia Tô cũng được hoạt động thong thả (giáo sĩ Le Roy viết cho Blandin đề ngày 18/7/1793: ”từ ngày Tây Sơn làm chủ, tôn giáo được tấn bộ”).
Đặc biệt là Quang Trung coi trọng tiếng Việt, mạnh dạn đánh đổ các thành kiến hàng ngót 2 ngàn năm chỉ quý Hán văn, coi rẻ Quốc âm bằng cách mỗi khoa thi vào đến tam trường các sĩ tử phải làm thơ phú bằng Quốc âm và việc cai trị hành chánh hay dùng chữ Nôm.
Xã hội an sinh thịnh vượng vì nhà nước thương dân, đại xá cho các tội nhẹ mỗi khi có hạn hán hay lụt lội.
Đối với Trung Quốc, Quang Trung chuẩn bị quân lương vũ khí để quyết tâm thu phục đất Lưỡng Quãng. Trong một buổi chầu, Quang Trung hỏi quần thần: ”..từ trước tới này trong lịch sử, Tàu xâm lăng nước ta nhiều lần, thế đã có ai đánh sang Tàu chưa ?” Các quan tâu: “ Lý Thường Kiệt đánh qua Lưỡng Quảng nhưng không chiếm đóng, rút về ngay” Quang Trung phán: “Ta sẽ đánh lấy lại đất Lưỡng Quảng”. Một mặt chuẩn bị việc binh, một mặt khiêu khích để thăm dò phản ứng của nhà Thanh:
– Phá lệ cống người vàng có từ đời Lê – Mạc
– Đòi lập nha hàng ở Nam Ninh tỉnh Quảng Tây để người Nam sang buôn bán làm ăn.
– Yêu sách xin ngựa tốt từ tàu ngựa quý của vua Thanh.
– Đòi nhân sâm quý cho Quốc Thái (mẹ Quang Trung) đã 80 tuổi.
Vua Thanh chấp thuận hết các đòi hỏi trên. Riêng việc nhân sâm, sử chép:
“… vua Thanh liền sai mở kho Thượng Phương, tặng ngay một cân nhân sâm tốt nhất hạng và phán … thật là trung hiếu khiêm toàn, đáng khen, đáng chuộng lắm lắm! Vậy ban một cân nhân sâm để giúp khanh (chỉ vua Quang Trung) tẩm bổ mẹ già và đặc cách cho chạy ngựa trạm đem đến ải Nam Quan chuyển cho viên trấn mục nước Nam đệ lên Quốc Vương thu nhận” (Đại Thanh thất lục, quyển 1347, số 5).
Xuân Canh Tuất (1790) sứ bộ nước Nam gồm [giả vương (Phạm Quốc Trị, cháu Nguyễn Huệ đóng vai vua Quang Trung), Quang Thùy (con trai thứ của Nguyễn Huệ cùng Ngô Văn Sở, Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn] được Phúc An Khang, tổng đốc Lưỡng Quảng hộ tống sang triều kiến vua Thanh. Cuộc tiếp đón cực kỳ long trọng (mỗi ngày nhà Thanh tiêu tốn 4 ngàn lượng bạc để cung ứng thuyền bè, xe ngựa, phu hầu, yến tiệc cho sứ bộ ta …). Cuối cuốn Tinh Sa kỷ hành (tờ 5) của Phan Huy Ích thuật lại: “… chuyến đi sứ này được vua Kiền Long nhà Thanh đặc cách cho quan tổng đốc Lưỡng Quảng đi bạn tống. Thuyền, xe, cờ, quạt choáng cả tai mắt. Đi tới đâu quan lại phải bôn tẩu đón tiếp đến đó, muôn phần vinh hiển. Mùa thu năm Canh Tuất (1790) đến hành cung ở Nhiệt Hà, lại theo xa giá vua Thanh về Yên Kinh, đi Tây Uyển, được ơn trời âu yếm ưu đãi khác thường. Trước giờ người mình đi sứ Tàu chưa có lần nào lạ lùng vẻ vang như vậy .”
Từ hồi cuối đời Lê, 6 châu thuộc Hưng Hóa và 3 động thuộc Tuyên Quang bị tụi thổ tư nhà Thanh “xẻo xén”, sát nhập vào bản đồ Lưỡng Quảng (Quảng Đông, Quảng Tây). Nay vua Quang Trung không nỡ để một tấc đất phải luân vong, bèn mạnh bạo đưa tờ biểu nhờ viên tổng đốc Lưỡng Quảng chuyển đạt lên vua Thanh, yêu cầu chia lại bờ cõi cho minh bạch. Nhà Thanh làm lơ, không chịu trả lại đất đai lấy cớ bấy lâu nay bờ cõi đã định, không thể thay đổi được nữa. Vua Quang Trung xiết bao bất bình, quyết chí làm đến cùng cho đạt được mục đích.
Gia phả họ Vũ do Vũ Đình Thứ, cháu 3 đời của Vũ Văn Dũng, soạn năm Bính Ngọ (1870) có chép việc vua Quang Trung sai xứ đem sắc mệnh này cho Đại đô đốc Vũ Văn Dũng, tạm dịch như sau:
“Sắc sai Đại đô đốc Đại tướng quân công thần Vũ Quốc Công làm chính sứ đi nước Bắc kiêm toàn quyền trong việc xin lại hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây để dò ý, cầu hôn một vị công chúa để chọc giận. Cẩn thận đấy ! Cẩn thận đấy ! (thậm chi ! thậm chi!). Hình thế dụng binh ở chuyến đi này cả. Mai đây làm tiên phong chính là khanh đấy. Khâm tai! Sắc mệnh” (Quang Trung tứ niên, tứ nguyệt, thập ngũ nhật, 1791).
Cứ theo gia phả họ Vũ thuật lại thì năm Nhâm Tí (1792) phái bộ Vũ Văn Dũng sang Tàu và bệ kiến vua Kiền Long (nhà Thanh) để tâu xin hai việc đó. Vua Kiền Long (hay Càn Long) châu phê giao đình nghị rồi sau chỉ ưng cho một tỉnh Quảng Tây để làm đất đóng đô thôi còn việc xin cưới công chúa thì vua Thanh chấp thuận sai bộ Lễ sửa soạn nghi lễ, định ngày cho công chúa sang Nam đẹp duyên với Quốc Vương. Nhưng sau đó, Vũ Văn Dũng nhận được tin chẳng lành: vua Quang Trung băng hà ! Vì vậy, mọi việc đều lỡ làng, bọn Dũng ôm hận trở về. Việc khôi phục Lưỡng Quảng tan theo giấc xuân mộng của nàng công chúa Mãn Thanh.
… Rời làng Quỳnh Đôi, trên đường trở về Hà Nội, ngàn năm Thăng Long, tôi vẩn vơ suy nghĩ về tinh thần cách mạng trong tư duy của Hồ Phi Thống (đã phá Tống Nho, phê phán xã hội chủ nghĩa, bênh vực nữ quyền), về nữ tính táo bạo trong thơ văn của Hồ Xuân Hương, về những chiến công hiển hách, những cải cách xã hội vượt thời gian đôi khi đẫm lệ, đẫm máu … của các danh nhân họ Hồ.
Văng vẳng trong lòng tôi còn lời than tiếc của Nguyễn Trãi:
“Anh hùng di hận kỷ thiên niên”
Và tiếng khóc chồng của Ngọc Hân công chúa:
“Mà nay áo vải cờ đào
Giúp dân dựng nước xiết bao công trình !
CÔNG dường ấy mà NHÂN dường ấy
Cõi thọ sao hẹp bấy Hóa Công”
Nếu Quang Trung Hồ Thơm sống thêm vài năm nữa, ta thu phục được đất Lưỡng Quảng thì đâu có chuyện mất đất, mất biển, lưỡi bò, lưỡi trâu như bây giờ. Ngọc Hân nàng hỡi ! Ngày hôm nay không chỉ một mình nàng khóc Quang Trung mà những chiến sĩ biên phòng, những chiến sĩ hải quân, dân chài ven biển cùng toàn dân Việt Nam đều đương khóc người Anh Hùng Dân Tộc:
“Công dường ấy mà NHÂN dường ấy,
Cõi thọ sao hẹp bấy Hóa Công !”
Viết xong tối Chủ nhật 28 tháng 11 năm 2010
tại Biệt thự Hương Tâm, đại lộ Hoàng Hôn,
Cựu Kim Sơn
Tác giả bài viết: Bùi Duy Tâm
Nguồn tin: BÙI DUY TÂM PROFILE
Ý kiến bạn đọc